PHẦN I
NHỮNG GIỜ PHÚT KHÔNG THỂ NÀO QUÊN TRONG NĂM 1969
Hà Nội. Mùa hè năm 1969.
Đã 24 năm qua đi, gần một phần tư thế kỷ, nếu tính từ năm 1945 lịch sử.
Năm nay Bác đã 79 tuổi, sức khoẻ giảm sút nhiều. Có lẽ dấu hiệu quan trọng đầu tiên về sự sa sút sức khỏe và bệnh tật ấy là trận ốm năm 1966. Năm ấy, Bác đi thăm đồng bào Thái Bình về đã bị co thắt động mạch não, liệt nhẹ nửa người. Các bác sĩ giỏi nhất đã được tập trung hết lòng cứu chữa. Bác đã đỡ nhiều, tuy nhiên từ đó việc đi lại của Bác nhiều khi đã phải dùng một cây can nhỏ (gậy cầm tay của những người già yếu). Cũng từ đó, Bác được Bộ Chính trị liên tục hết lòng chăm nom thuốc thang. Nước bạn Trung Quốc cũng đã mời Bác sang chữa bệnh. Bản thân Bác cũng chăm luyện tập thân thể hơn với một nghị lực rất lớn.
Buổi sáng ngày 10 tháng 5 năm 1969, như thường lệ, từ 5 giờ 30 phút Bác đã dậy để lập thể dục. Đồng chí Vũ Kỳ, người thư ký hết sức thân tín của Bác, bao giờ cũng đã đợi sẵn ở chân cầu thang ngôi nhà sàn để đón Bác. Thường mọi hôm Bác còn gọi cả đồng chí Tô (tên gọi thân mật của đồng chí Phạm Văn Đồng) ở ngôi nhà xây hai tầng ngay gần bãi xi măng bóng rổ trong Phủ Chủ tịch. Nhưng hôm nay đồng chí Tô dậy muộn vì tối qua bận làm việc quá khuya. Để đồng chí Tô ngủ tiếp, hai Bác cháu cùng nhau tới đường Xoài tập một hồi, rồi quay trở lại.
Đi bộ xong, Bác còn tưới cây, cho cá ăn ở hồ xong mới vào để điểm tâm rồi mới trở lại nhà sàn làm việc. Đồng chí Kỳ vẫn cẩn thận cùng đi theo Bác lên từng bậc thang để sẵn sàng đỡ nếu Bác lỡ xảy chân. Trước khi đồng chí Kỳ trở xuống, Bác quay lại dặn: Sáng nay Bác bận việc, không tiếp khách. Ai hỏi gì, xin lui lại chiều hoặc sáng mai.
Đồng chí Kỳ nhớ rồi: Sáng nay là ngày 10 tháng 5, như thường lệ từ năm 1965 tới nay, hàng năm Bác vẫn sửa lại bản Di chúc đã viết từ năm đó. Trên góc trang đầu của bản Di chúc, Bác đã ghi mấy chữ "Tài liệu tối mật”. Là thư ký riêng, đồng chí Kỳ đã được Bác đưa cho giữ bản “Tài liệu tối mật” ấy mỗi khi Bác đi công tác hoặc sang Trung Quốc chữa bệnh. Năm 1965, Bác vẫn còn khoẻ mạnh, nhưng chiến tranh đang có chiều hướng ác liệt hơn. Mỹ đã đổ thêm quân vào miền Nam khá nhiều và bắt đầu đánh bom cả ra miền Bắc. Hải quân chúng đã bắn phá một số điểm trên bờ biển nước ta. Bọn biệt kích liên tục được chúng tung ra miền Bắc. Chiến tranh rõ ràng đã lan ra cả nước và ngày càng khốc liệt. Do đó rất cần có cái nhìn vững vàng trên toàn cuộc và rất cần sự động viên lớn hơn nữa. Toàn Đảng,toàn dân quyết chiến đấu, dù gian lao, cực khổ đến đâu. Mặt khác, về phần mình, năm ấy tuổi Bác đã cao, vì thế Bác đã viết Di chúc, nhưng chỉ ngắn gọn trong khoảng một ngàn chữ. Sự nghiệp cả một đời người nhìn lại, cộng với những tư tưởng lớn soi sáng cho cả những năm dài mai sau mà chỉ gói trong có một nghìn chữ, rất cô đọng. Tác phong sống và cả văn phong của Bác trong các tài liệu, cả báo chí, thơ ca… xưa nay vẫn thế: Hết sức giản dị nhưng cũng hết sức cô đọng và vô cùng sâu sắc. Qua bốn năm, đã sửa đi sửa lại bản di chúc này, năm nay Bác thấy vẫn cần sửa thêm.
… Trên nhà sàn, Bác kéo ghế ngồi trước bàn. Dù không được khoẻ, Bác vẫn rất ung dung, tao nhã, chòm râu hiền nhân và thông thái tuyệt đẹp. Bác cầm bút lên. Tâm hồn Bác thật bình tĩnh. Tư tưởng, trí tuệ Bác hoàn toàn sáng suốt. Bác đã nghĩ trước rồi, năm nay, trước tình hình mới Bác sẽ sửa lại đoạn mở đầu bản Di chúc: Nhấn mạnh hơn nữa, khẳng định hơn bao giờ hết: Chúng ta nhất định thắng, giặc Mỹ xâm lược nhất định thua. Chiến tranh càng ác liệt, điều đó càng phải khẳng định, phải chốt lại kiên quyết nhất. Năm nay, Bác cũng sẽ bổ sung, nhấn mạnh về sự đoàn kết thiêng liêng trong Đảng. Thật vậy, đó chính là yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nhân dân ta tới chiến thắng và xây dựng Tổ quốc.
Trong lúc đó, ở nhà dưới, đồng chí Vũ Kỳ bỗng nghe có chuông điện thoại liền nhấc máy lên nghe. Ông Kỳ nhận ra ngay người gọi ở đầu dây bên kia là Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Quân uỷ Trung ương. Vẫn như mọi lần, câu đầu tiên của đồng chí Văn (tên gọi thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) hỏi là đêm qua Bác ngủ có yên giấc không, sáng nay Bác ăn uống thế nào, Bác vẫn tập thể dục đều như mọi hôm chứ?. Rồi Đại tướng ngỏ ý muốn sang thăm sức khoẻ Bác. Đồng chí Kỳ cân nhắc: Mới cách đây một ngày, cũng trong trường hợp Bác đang làm việc, đồng chí Trường Chinh gọi điện đề nghị được gặp Bác. Không muốn Bác phải ngừng công việc của mình, ông Kỳ đã khéo léo nghĩ được một cách là mời đồng chí Trường Chinh đến cùng dùng bữa trưa với Bác rồi sẽ nói chuyện cả thể. Vậy hôm nay, có lẽ cũng lại đề nghị với đồng chí Văn như vậy chăng? Nhưng Bác đã dặn rồi, ai hỏi, xin lui lại. ông Kỳ bèn đề nghị với Đại tướng là đến chiều. Đại tướng đồng ý. Ông Kỳ mừng quá.
Buổi chiều, đúng hẹn, Đại tướng Tổng Tư lệnh tới. Dạo này đồng chí sang thăm Bác luôn luôn, hôm cả buổi, hôm ít nhất cũng nửa tiếng hoặc một giờ. Bác rất biết tấm lòng đặc biệt của đồng chí Văn, người đồng chí, người học trò yêu quý, gắn bó nhất của Bác kể từ khi Bác về Pắc Bó năm 1941. Bác đã sớm nhìn thấy ở đồng chí một con người trí thức cách mạng rất trí tuệ, rất trung thực và đầy tài năng trong xây dựng, chỉ huy quân đội, dù chưa bao giờ được đào tạo ở một trường quân sự nào.
Bác tiếp đồng chí Văn ở ngay dưới ngôi nhà sàn.Bao giờ cũng vậy, Bác ân cần và sốt sắng hỏi trước, dường như Bác có ý không muốn để đồng chí Văn hỏi về sức khoẻ của mình. Bác đã rất cố gắng làm sao cho được bình thường như trước đây với giọng ấm áp và hiền hậu:
- Thế nào chú, tình hình chiến sự trong kia mấy hôm nay ra sao? Việc các đồng chí trong ấy chuẩn bị để Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ ra mắt vào tháng 6 hoặc tháng 7, nay công việc tới đâu rồi?...
Cũng như tất cả mọi lần gần đây sang thăm Bác, e Bác mệt, đồng chí Văn chỉ báo cáo rất vắn tắt mọi việc và trong khi Bác chăm chú nghe, đồng chí Văn vẫn không quên thầm quan sát, ngắm nhìn thần thái Bác như mọi khi, để coi sức khoẻ Bác hôm nay có gì khác, có tiến triển gì không?. Hôm nay, đồng chí nhận thấy: Khi hỏi, khi nói, dù Bác đã cố giữ giọng cho được như xưa, nhưng vẫn không được đều cho lắm, có lúc nghe như yếu và nhỏ đi như hụt hơi hoặc tắc nghẹn lại trong một, hai giây. Đồng chí Văn không thể không thêm lo lắng và thầm xót xa. Các bác sĩ giỏi về chuyên khoa tim mạch, não đã được Bộ Chính trị bố trí thường xuyên bên Bác để săn sóc, trông nom, thuốc men hàng ngày, nhưng nay xem ra bệnh của Bác chẳng hề lui, sức khoẻ Bác vẫn có chiều giảm sút.
Thật vậy, đúng như đồng chí Văn đã đoán biết, dù Bộ Chính trị đã hết lòng quan tâm chăm lo, sau một năm xảy ra "sự cố” về tim mạch, sức khoẻ của Bác vẫn không có tiến triển gì rõ rệt. Ngày 15 tháng 7 năm 1967, Bộ Chính trị đã mở một cuộc họp bất thường bí mật cực kỳ quan trọng. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì cuộc họp này. Cuộc họp đã bàn, một mặt tăng cường hết lòng chăm lo sức khoẻ của Bác, mặt khác Bộ Chính trị nhận thấy tuổi Bác đã ngày càng cao mà bệnh tình lại như vậy, phải can đảm và thực tế nghĩ tới sự kiện cực kỳ đau lòng là Bác có thể không lâu nữa sẽ “ra đi”… Do đó phải tính tới việc lo liệu và phải có ngay quyết định lưu giữ thi hài Bác lâu dài cho nhân dân cả nước, nhất là miền Nam được “chiêm ngưỡng” Bác - vị Anh hùng vĩ đại của dân tộc, đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đánh bại kẻ thù ngoại xâm hung ác nhất, đồng thời chấm dứt mấy nghìn năm chế độ phong kiến lạc hậu, khai sinh ra nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Châu Á này.Đó là một nghị quyết lớn và cực kỳ khó khăn bởi nếu biết Bác sẽ không cho thực hiện. Đã tính hết mọi nhẽ. Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Bộ Chính trị quyết định lưu giữ thi hài Bác lâu dài và sẽ xây một ngôi Lăng của Người. Bộ Chính trị tin là toàn dân sẽ hoàn toàn ủng hộ, và cũng tin rằng lịch sử sẽ chứng minh cho quyết định này là hoàn toàn chính xác. Trong cuộc họp ấy, Quân uỷ Trung ương đã được trao nhiệm vụ lưu giữ thi hài Bác nếu vạn nhất Bác phải "nằm xuống". Bộ Kiến trúc được trao cho vai trò chủ yếu trong việc xây dựng Lăng, phải làm sao cho tương xứng với công ơn trời biển của Bác, với uy tín và lòng kính phục Bác của nhân dân ta, của bạn bè thế giới. Trong phân công nhiệm vụ, Bộ Chính trị còn tỉ mỉ hơn nữa: Đã chỉ định cụ thể đồng chí Nguyễn Lương Bằng trực tiếp theo dõi và chăm sóc sức khoẻ Bác hàng ngày. Đồng chí Lê Thanh Nghị được Bộ Chính trị phân công bí mật, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ sớm sang Liên Xô hội đàm đề nghị Bạn giúp đỡ ta đào tạo gấp một số cán bộ y tế chuyên về lưu giữ thi hài, đồng thời giúp ta những phương tiện chuyên dùng và thuốc men đặc biệt cần thiết trong công việc đó.
Sau cuộc họp tối mật, tối quan trọng ấy chỉ vài ngày, đồng chí Lê Thanh Nghị đã lên đường đi Liên Xô. Mọi yêu cầu của chúng ta về đề nghị Liên Xô giúp đỡ giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được Bạn đồng ý và cam kết sẵn sàng đào tạo cán bộ y tế cho Việt Nam. Một Tổ Y tế cũng được Quân uỷ cho thành lập gấp và đưa sang Liên Xô để học về lưu giữ thi hài lâu dài.
Tháng 8 năm 1968, sau một thời gian học tập, Tổ Y tế gồm 3 cán bộ, bác sỹ từ Mát-xcơ-va đã về đến Hà Nội. Bác sĩ Lê Ngọc Mẫn, một trong ba thành viên của Tổ Y tế, đã được điều ngay sang nơi Bác ở, tăng cường cho một bác sĩ vốn đã ở đây từ lâu - bác sĩ Nhữ Thế Bảo - để cùng trông nom sức khoẻ cho Bác. Còn hai bác sĩ: Nguyễn Gia Quyền và Lê Điều được Quân uỷ cho bổ sung thêm một số bác sĩ, y sĩ khác, thành lập một Tổ Y tế đặc biệt (do bác sĩ Quyền làm Tổ trưởng) có nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở vật chất làm các thực nghiệm khoa học trong điều kiện nước ta, để khi Bác “nằm xuống” sẽ có thể chủ động được công việc nếu Bạn chưa kịp sang.
Gần như song song với việc này, Quân uỷ đã quyết định làm một cơ sở thí nghiệm dựa vào Khoa Giải phẫu hình thể của Bệnh viện Quân y 108, mang biệt danh 75A; ngoài ra còn làm một cơ sở tương tự ở ngay Hội trường Ba Đình để đưa thi hài Bác tới làm Lễ Quốc tang mang mật danh 75B.
Song song với công việc bí mật làm hai cơ sở 75A, 75B, các việc chuẩn bị khác cho "đại sự” cũng đã được lo liệu rất chu đáo. Tuy nhiên, Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục hết sức chăm lo chu đáo về mặt sức khỏe cho Bác với niềm hy vọng và cầu mong là Bác sẽ ngày càng khoẻ mạnh và có thể kéo dài tuổi thọ.Nhưng tiếc thay, đau đớn thay, tới nay chỉ bằng mắt thường không phải của các nhà y học chuyên sâu, Đại tướng và nhiều người khác đều thấy sức khoẻ Bác giảm sút nhiều…
Sợ Bác mệt, báo cáo vắn tắt về tình hình chiến sự xong, đồng chí Văn chuyển sang báo cáo với Bác việc sẽ có một đoàn lớn đại biểu của toàn quân sẽ tới chúc thọ Bác nhân dịp ngày sinh nhật lần thứ 79. Bác sẽ gặp gần như đầy đủ các đồng chí trong Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, chỉ trừ một số đồng chí đã vào Nam. Bác tỏ ra rất vui…
Khi đồng chí Văn đứng dậy xin phép Bác ra về, không ngờ, vẫn như mọi khi, Bác lại nhắc lời đề nghị tha thiết của Bác từ mấy năm nay: Hãy cố gắng cùng các đồng chí Bộ Chính trị tổ chức cho Bác được vào thăm đồng bào trong Nam. Đầy xúc động, Bác nói:
- Chú Văn ạ, chưa vào thăm đồng bào yêu quý ở miền Nam được, sau đây nếu có chết đi, làm sao mà Bác có thể dễ dàng nhắm mắt?
Gần như bàng hoàng, nhưng đồng chí Văn cũng chỉ biết hứa về phần mình sẽ đề nghị tích cực hơn nữa với các đồng chí có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong đáy lòng mình, một nỗi xót xa đã ngập đầy. Chiến tranh thì ngày càng ác liệt, khó khăn càng nhiều hơn, chưa nói tới những trở ngại khác, chỉ riêng sức khoẻ của Bác năm nay - mặc dầu Bác nói vẫn đủ khả năng đi - rõ ràng là càng kém hơn mọi năm. Vậy ai dám tổ chức đưa Bác đi, dù hiểu rất rõ tấm lòng của Bác yêu quý đồng bào miền Nam sâu sắc không có gì so sánh nổi. Bác ơi, cầu xin hãy cảm thông cho tâm trạng hiện nay của nhân dân, của tất cả học trò, tất cả những người đồng chí, những người chiến sĩ vô cùng tin yêu Bác..
Ngay hôm sau, ngày 11 tháng 5 năm 1969, sớm hơn ngày sinh của Bác mấy ngày, đúng như lời đồng chí Văn, một đoàn lớn gồm toàn các tướng lĩnh, chỉ huy, lãnh đạo thuộc đủ các quân khu, quân binh chủng đang có một cuộc họp quan trọng tại Hà Nội đã dừng lại một buổi, cùng nhau tới Nhà khách Phủ Chủ tịch để chúc thọ Bác. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị, Lê Văn Lương, Song Hào, Quang Đạo… cùng đến chúc mừng Bác. Trong khi đợi Bác, mọi người ngồi trò chuyện vui vẻ. Nhiều người không quên nhắc lại một số buổi lễ sinh nhật trước đây của Bác. Đó là sinh nhật Bác năm 1946, năm độc lập đầu tiên, ở Hà Nội - Bắc Bộ Phủ, Bác đã tiếp các đoàn đại biểu của sinh viên, học sinh, thiếu nhi và tự vệ. Rất vui vẻ, Bác đã tặng các cháu thiếu nhi một cây hoa mai và nói: “mai chủ yếu là ở miền Nam của Tổ quốc". Trong lúc đó, ngoài đường phố, nhiều đoàn thanh niên xếp hàng tuần hành thị uy trước những nơi có phái đoàn quốc tế, vừa đi anh em vừa hát vang các bài ca cách mạng và liên tục hô vang: "Hồ Chủ tịch muôn năm!", "Nước Việt Nam độc lập muôn năm". Một số phóng viên Mỹ và cả phóng viên Pháp đi theo Xanh-tơ-ny (đại diện Chính phủ Pháp sang ta thảo luận nhiều vấn đề cấp bách) chứng kiến cảnh ấy đã phải phát biểu: "Cụ Hồ quả là có một uy tín rất lớn. Không phải ở nước nào trên thế giới cũng có được một lãnh tụ như vậy"… Tới cuối năm 1946, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Chính phủ bí mật dồn lên chiến khu. Những lễ mừng sinh nhật Bác từ đó làm rất giản dị. Trong lễ mừng sinh nhật năm 1949, Bác đã làm một bài thơ, nay nhiều người vẫn còn nhớ:
Vì nước chưa nên nghĩ tới nhà
Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già
Chờ cho kháng chiến thành công đã
Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.
Cho tới 19 tháng 5 năm 1965, Bác đã trên 75 tuổi. Dịp ấy Bác đi công tác xa, một cán bộ cảnh vệ đã mạnh dạn làm mấy câu thơ dâng Bác:
Chúng con chúc Bác sống trăm năm
Để cứu non sông, để cứu dân
Đuổi hết những loài quân xâm lược
Vạn phúc Việt Nam vạn phúc hồng.
Mọi người còn đang vui chuyện thơ, văn, thì cửa phòng bên mở rộng. Bác gắng làm ra vẻ nhanh nhẹn bước ra. Vẫn nụ cười rất tươi và hiền hậu, vẫn bộ bà ba nâu giản dị và đôi dép cao su quen thuộc. Tuy nhiên, mái tóc Bác đã bạc nhiều hơn, chòm râu thông thái cũng vậy và khuôn mặt cũng hao gầy hơn. Tất cả mọi người đều đứng cả dậy reo vang cùng những tiếng hô xúc động kéo dài: "Hồ Chủ tịch muôn năm!”, "Bác Hồ kính yêu muôn năm!"… Niềm tin yêu và tôn kính tràn ngập khắp căn phòng. Cũng giống như mọi khi, Bác mỉm cười dang cả hai tay rồi hạ xuống có ý bảo xin ngừng lại. Nhưng Bác phải vẫy lay tới mấy lần tiếng hô, tiếng reo mới chấm đứt. Tất cả mọi người đều vẫn đứng. Bác ôn tồn nói:
- Mời các chú ngồi. Các chú khoẻ không?
Tất cả cùng đáp vang:
- Thưa Bác khoẻ ạ.
Bác gật đầu:
- Vậy tốt lắm, Bác rất mừng.
Đến đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng lên phát biểu chúc Bác sống lâu muôn tuổi để lãnh đạo toàn quân, toàn dân quyết định đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp.
Trong khi Đại tướng phát biểu, mọi người vẫn ngắm nhìn Bác như ngắm nhìn một người Cha với tất cả niềm tin, niềm vui, nhưng cũng với cả những nỗi buồn lo thầm kín về sức khoẻ của Bác.
Tiếp đó, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Phó Tổng Tham mưu trưởng đứng lên chúc thọ Bác. Đó là người “anh hùng” từ cuộc vượt ngục Nghĩa Lộ trước Tổng khởi nghĩa cho tới trận chiến đấu oanh liệt hai tháng trời trong lòng Hà Nội tháng Chạp năm 1946 chống Pháp… rồi tới Điện Biên Phủ với trận Đồi Độc Lập vang dội và tiếp đó là trận cắt đứt sân bay “cái dạ dày" của tập đoàn cứ điểm. Đồng chí Vũ có đặc điểm: Nói năng sang sảng, rất oai dũng. Hôm nay đồng chí được phân công thay mặt anh em ôm một bó hoa lớn lên chúc thọ Bác nhưng xúc động quá, đồng chí nói khá vấp váp. Bác cười, rút một bông hoa đưa tặng lại cho đồng chí Vũ, rồi làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi:
- Này, Hổ tướng mà nói như chim vậy à?
Cả hội trường vỡ oà trong tiếng cười vui vẻ. Bác vẫn thế: Cực kỳ trí tuệ, cực kỳ nghiêm túc và kiên quyết trong mọi công việc, nhưng đồng thời cũng luôn hóm hỉnh, thông minh trong quan hệ bạn bè, đồng chí và nhân dân. Không khí buổi chúc thọ Bác càng thêm vô cùng ấm áp. Tất nhiên nhiều đồng chí cũng như đồng chí Văn bữa nọ vẫn không khỏi âm thầm đau buồn nhận thấy tiếng nói của Bác hôm nay đôi lúc vẫn nhỏ đi và dường như bị ngắt lại một chút.
Sáng hôm sau (13- 5-1969), Bác lại có cuộc tiếp khách khác. Ban Bí thư Trung ương định báo cáo với Bác xin lui cuộc tiếp này vài ngày nữa vì e Bác mệt. Tuy nhiên khi hỏi ai muốn gặp, được trả lời là đồng chí Xuân Thuỷ vừa lừ Hội nghị Pa-ri trở về báo cáo, Bác bảo mời sang ngay. Và đồng chí Xuân Thuỷ đã tới không phải chỉ một lần mà theo chỉ thỉ của Bác còn phải tới lần thứ hai để Bác hỏi thêm nhiều điều cần thiết và góp ý với phái đoàn. Đồng chí Xuân Thuỷ đã luôn luôn ôm lấy bàn tay Bác và hứa sẽ chấp hành mọi lời chỉ giáo quý báu của Bác.
Đến đúng ngày 19 tháng 5, lại có hai người khách nữa xin được gặp Bác. Đó là chị Phan Thị Quyên, vợ anh Nguyễn Văn Trỗi và chị Lê Thị Vân phụ trách công tác thanh niên, sinh viên của Sài Gòn - Gia định.Hai người vừa trông thấy Bác đã chạy oà tới ôm chầm lấy Bác như những đứa con đi xa quá lâu ngày mới được trở về gặp Cha. Hai chị khóc, khóc mãi không thôi, khóc vì vinh dự, vì quá yêu kính Bác, khóc còn vì đã được nghe biết Bác đang đau yếu nhiều. Chiều hôm đó Bác đã trò chuyện, cùng ăn cơm với hai chị em. Khi hai chị ra về, Bác đặt tay lên ngực mình, nói với ông Vũ Kỳ: "Bao giờ cũng vậy, gặp các cô, các chú, các cháu trong Nam ra, Bác cũng vô cùng sung sướng và thấy khoẻ ra".
Sáng tháng 6. Bác đỡ bận rộn hơn, đồng chí Hà Huy Giáp tới gặp Bác xin chỉ thị về việc xuất bản sách "Người tốt việc tốt…
Bước qua tháng 7, Bác tiếp đồng chí Mac-ta Rô-hát - Chủ nhiệm báo Granma - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Cuba. Cuộc phỏng vấn hết sức tốt đẹp. Bác đã tâm sự với Mac-ta Rô-hát: "… Ở miền Nam chúng tôi, mỗi người, mỗi gia đình đều có nỗi đau khổ riêng. Gộp cả những nỗi đau ấy lại là nổi đau buồn của chính tôi. Tôi biết rằng tôi chưa làm tròn nhiệm vụ cách mạng của tôi với đồng bào miền Nam. Mặc dù vậy, tôi biết đồng bào miền Nam vẫn thương quý tôi như tôi rất yêu quý họ. Ở miền Nam, tôi không phải là Hồ Chủ tịch mà tôi là Bác Hồ".
Sau đó Bác đồng chí Sác-lơ Phuốc-nhê-ô, phóng viên báo Nhân đạo – cơ quan của Trung ương Đảng Cộng Sán Pháp. Bác cũng đã nói với Sác-lơ: "Nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trước hết vì có hai vũ khí lớn: Một là truyền thống chống xâm lược anh hùng hàng nghìn năm của Tổ quốc tôi và đó cũng là lòng yêu nước rất lớn Việt Nam; hai là chủ nghĩa cộng sản mà hai Đảng của chúng ta đang cùng theo đuổi, mà hạt nhân của nó theo chúng tôi là biết suy nghĩ và hành động theo phép biện chứng trên quan điểm duy vật".
Từ lâu, để giữ gìn sức khỏe cho Bác, Bộ Chính trị đã dành thời gian để Bác được nghỉ ngơi, chữa bệnh nên phần nhiều chỉ bố trí khách tới thăm sức khoẻ, hoặc làm việc nhẹ nhàng. Bác hiểu, tuy nhiên Bác vẫn coi trọng tất cả mọi cuộc tiếp xúc, và rất vui khi cảm thấy mình vẫn còn làm được nhiều việc hữu ích.
Bước sang tháng 8 (2-8-1969) Bác lại có cuộc gặp đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Bí thư Đảng bộ Sài Gòn - Gia định mới ra Hà Nội họp.
Sáng hôm ấy, cùng đi tập về, Bác dặn đồng chí Vũ Kỳ:
- Chú nhắc nhà bếp chiều nay làm cơm để Bác tiếp đồng chí Mười Cúc. Nhớ làm cho mấy món miền Nam. Mời cả chú Tô và cả chú nữa, ta cùng ăn cơm cho vui.
Đúng 16 giờ 15 phút đồng chí Mười Cúc tới. Bác đã đón sẵn ở dưới ngôi nhà sàn trong trang phục bà ba đen, một cặp kính trắng, đầu trần, đi dép nhựa giản dị. Đồng chí Nguyễn Văn Linh khoẻ mạnh và nhanh nhẹn bước tới ôm lấy Bác. Đã được nghe nói về sức khoẻ của Bác từ trong kia, bây giờ được gặp Bác, đồng chí Linh không khỏi cảm thương. Bác khoác vai đồng chí Mười Cúc cùng vào phòng họp của Trung ương và Bộ Chính trị dưới ngôi nhà sàn. Bác đã biết đồng chí Nguyễn Văn Linh lừ lâu, một con người chân chính, một trong những đồng chí lãnh đạo có đầu óc thông minh, xuất sắc của Đảng ta, vừa có tài năng, trí tuệ vừa có đức độ nên trong Nam ai ai cũng ca ngợi. Đồng chí Tô đã sang. Đồng chí Mười Cúc bắt đầu báo cáo cụ thể với Bác và đồng chí Tô về tình hình chiến trường miền Nam. Tất nhiên cũng chỉ là tóm tắt, khái quát vì đồng chí biết Bác đang rất yếu. Khi đồng chí kể đến những cuộc tàn sát dã man của Mỹ, nguỵ trên chiến trường miền Nam hiện nay, Bác đã không cầm được nước mắt. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nhiều lần phải ngừng lại và chính mình cũng phải rớm lệ - rớm lệ vì tấm lòng của Bác đối với miền Nam. Rồi đồng chí tóm tắt hơn nữa, sợ Bác nghe nhiều sẽ mệt.Sau khi dùng cơm xong, xin phép Bác ra về, đồng chí Mười Cúc bỗng được Bác cầm tay giữ lại:
- Bác đề nghị đồng chí khi trở vào hãy bàn với Trung ương Cục hoặc Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia định cố tìm cách cho Bác vào thăm bà con cô bác trong đó. Bác sẵn sàng nghi trang để địch khỏi nhận ra. Bác có thể sẽ cạo bỏ cả bộ râu này đi...
Hoàn toàn sững sờ, đồng chí Linh chỉ còn biết lặng người đi rồi thành thực thưa với Bác xin hãy thư thư cho. Tình hình hiện nay dẫu sao vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Và gần như nghẹn ngào, đồng chí Linh lặng người đi rồi thành thực thưa với Bác xin hãy thư thư cho bởi tình hình hiện nay dẫu sao vẫn còn rất nhiều khó khăn. Trong xúc động nghẹn ngào, đồng chí Linh càng hiểu hơn: Cho tới lúc này mặc dầu sức khoẻ đã kém đi như vậy nhưng Bác vẫn tiếp tục tha thiết yêu cầu được vào Nam thăm bà con cô bác. Miền Nam vẫn là niêmd trăn trở, nhớ thương khôn nguôi trong tim Bác.
Ba hôm sau (ngày 5-8-1969), Bác lại nói với đồng chí Vũ Kỳ có vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo cũng vừa từ miền Nam mới ra. Bác muốn tới thăm ông bà ấy. Ông Kỳ xin phép có ý kiến: Sức khoẻ Bác chưa được tốt, vậy nên mời ông bà ấy tới đây phải hơn. Bác lắc đầu. Theo ý Bác: Ông bà Thảo cũng đã có tuổi, vừa mới ra, cần được nghỉ ngơi. Bác cháu ta đến tận nơi mới là quý người. Rồi Bác nói thêm cho ông Kỳ rõ: Ông Thảo là một nhà tri thức lớn rất có uy tín ở cả Việt Nam. Tuy chưa phải Đảng viên nhưng ông bà đã công khai, tích cực tham gia phong trào yêu nước từ năm 1945. Ông Thảo đã bị chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm bắt giam ba lần, nhưng không hề sợ hãi, vẫn một lòng hướng về cách mạng. Năm 1968 vừa qua ông đã quyết dấn thân ra mật khu của cách mạng. Trong Đại hội Quốc dân miền Nam (như Quốc hội) vừa qua, ông Trịnh Đình Thảo được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Nghe Bác giới thiệu như thế, ông Kỳ hiểu ra ngay. Tuy nhiên ông cũng không khỏi thầm than: “Bác ơi, đang bệnh, đang yếu mệt vậy mà Bác vẫn chẳng nề hà bất cứ việc gì có thể làm cho sự đoàn kết và phát huy được tinh thần tất cả mọi người vì dân vì nước". Thế rồi ngày 5 tháng 8 năm 1969, đúng như mong muốn, Bác đã được đưa tới tận nơi ông bà Trương Đình Thảo đang nghỉ. Thấy Bác tới, ông bà Thảo đều hết sức ngạc nhiên, cùng chạy vội ra, chắp tay chào tỏ lòng kính trọng và hân hạnh. Bác cười rất tươi trong khi ông bà gần như vẫn vô cùng bối rối vì quá cảm kích trước sự viếng thăm:
- Ôi, thưa Bác, thật không sao ngờ Bác lại hạ cố như thế này. Vợ chồng tôi còn biết nói sao để bày tỏ niềm vinh dự và vô cùng sung sướng cũng như niềm tri ân lớn nhất của lòng mình.