LỜI NÓI ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta, nhà văn hóa kiệt xuất, người chiến sỹ lỗi lạc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người sống mãi với thế hệ hôm nay và muôn đời con cháu mai sau. Sau khi Người qua đời, thể theo nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, Bộ Chính trị quyêt định giữ gìn lâu dài thi hài và xây dựng Lăng của Người giữa Ba Đình lịch sử - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ ngày Bác đi xa, cán bộ, công nhân viên, chiến sỹ các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua biết bao khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân tin tưởng giao cho. Thi hài Bác được giữ gìn trong trạng thái tốt nhất. Lăng Bác - công trình của lòng dân, ý Đảng đã trở thành nơi hội tụ tình cảm và niềm tin của cả dân tộc, thể hiện tấm lòng kính yêu, đời đời biết ơn và nguyện đi theo con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn.
Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu cuốn sách “ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh - Đài hoa vĩnh cửu” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành. Đây là tình cảm thiêng liêng, lòng biết ơn sâu sắc của cán bộ, công nhân viên, chiến sỹ các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh kính dâng lên Đảng, Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
LĂNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐÀI HOA VĨNH CỬU
Hà Nội đêm 01 tháng 9 năm 1945.
Đã về khuya. Vòm trời đen xanh trên cao chi chít những chòm sao nhấp nháy gần xa như mở hội. Gió lao xao, lúc như vui đùa, lúc như thầm thì trò truyện trên các vòm cây xanh ngang dọc khắp thành phố. Trong khi đó, dưới các tàng cây dường như cũng có một trời sao rực rỡ khác. Đó là biết bao ngọn đèn vẫn còn sáng trưng trong tất cả ngôi nhà, từ những mái tranh nghèo lụp xụp ngoại ô cho tới những toà nhà, biệt thự xinh đẹp trên những đường phố lớn, nhỏ. Thật vậy, dù đã rất khuya, nhân dân Hà Nội và tất cả các vùng xung quanh vẫn còn thức để sửa soạn áo quần, cờ hoa, băng rôn, biểu ngữ…và cả thức ăn cho buổi đi dự Đại lễ chưa từng có trong lịch sử vào ngày hôm sau. Đó là Đại lễ mà Chính phủ lâm thời của cách mạng sẽ công bố chính thức bản Tuyên ngôn Độc lập trước toàn dân, toàn thế giới việc thành lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt đêm dài tăm tối ngót trăm năm nô lệ dưới ách thực dân Pháp và gần đây là Phát xít Nhật; đồng thời cũng chấm dứt luôn vương triều phong kiến lạc hậu cuối cùng của nhà Nguyễn.
Trong đêm “Giao thừa” của ngày Hội non sông thiêng liêng ấy, niềm vui lớn hiển nhiên và trước hết là được trực tiếp nghe bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ. Nhân dân Hà Nội cũng còn hồi hộp mong được tận mắt nom thấy vị lãnh tụ tối cao của cách mạng - vị Chủ lịch đầu tiên của đất nước. Tính danh của người vừa mới được cán bộ khu phố hồi chiều cho biết là Cụ Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mọi người còn mong được gặp cả một nhân vật hết sức quan trọng nữa, đó là ông Nguyễn Ái Quốc, nhà cách mạng tuyệt vời mà nhiều người đã được nghe nói tới từ lâu. Khi còn trẻ, hoạt động ở Pháp ông đã đàng hoàng một mình đưa bản kiến nghị tới Hội nghị quốc tế ở Véc-xây (Versailles) đòi quyền sống, đòi độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân dân Việt Nam. Về sau, ông càng hoạt động nhà cầm quyền Pháp càng e sợ tài năng, càng kính nể đạo đức và nhân cách lớn của người chiến sỹ cách mạng Việt Nam huyền thoại ấy… Không màng tới hạnh phúc riêng, ông đã hoàn toàn cống hiến cả cuộc đời mình cho Cách mạng giải phóng dân tộc, cho nền độc lập, tự do của đất nước. Vừa qua, năm 1941, khi phát xít Nhật bằng sức mạnh ồ ạt tiến vào Việt Nam rồi sau đó hất cẳng Pháp, ông đã có thư gửi về cho toàn thể đồng bào phân tích tình hình chung và triển vọng giải phóng đất nước. Ông kêu gọi mọi người đoàn kết và hăng hái chiến đấu. Ôngkhẳng định Pháp và Nhật nhất định sẽ đánh nhau và sẽ đều thua. Cách mạng nhất định thắng. Việt Nam nhất định sẽ được độc lập, tự do. Nay mới có vài năm, lời ông nói đã trở thành hiện thực. Vậy ngày mai, Nguyễn Ái Quốc, người chiến sỹ lừng danh ấy liệu cũng sẽ có mặt ở Hà Nội, bên cạnh cụ Hồ?
Thế rồi, từ mờ sáng hôm sau, khi sương thu còn mỏng xanh như khói phủ trên thành phố, bà con nội, ngoại thành đã lục tục kéo nhau đi lên hầu khắp các ngả đường cùng hướng về phía tây bắc thành phố, nơi đó có địa điểm tập trung làm lễ đã được cán bộ các đường phố, các khu, tiểu khu báo trước. Đó là một bãi đất rộng ở cuối con đường rất đẹp vốn mang tên đường Puginier (tên một ông cố đạo chủ trì việc xây Nhà Thờ lớn Hà Nội, nay ta đã đặt lại là đường Điện Biên Phủ), chính giữa có một bùng binh (vườn cỏ tròn lớn), phía tây bùng binh có một bức tường trang trí với các cửa cuốn (cửa giả) theo kiểu thức Toscane (một vùng ở miền trung nước Ý). Về phía tay trái của bùng binh ấy không quá 500m là khu Dinh Toàn quyền nước Pháp cũ, xung quanh có rất nhiều cây xanh tốt; phía bên phải bùng binh là chùa Một cột nhỏ bé nhưng phong cách kiến trúc rất độc đáo đã nổi tiếng từ bao thế kỷ qua. Đối diện với bùng binh về phía đông, cách chừng trên 1500m cũng là một khu đất lịch sử rất lớn: Đó là khu Hoàng thành xưa đã bị Pháp phá huỷ hầu hết để mở đường và làm các cơ sở cho nhà binh của chúng…
Xuống đường từ rất sớm, tới 9 giờ 30 sáng, những đoàn người, dù là đoàn thể hay chưa Đoàn thể vẫn nối tiếp nhau tiếp tục đổ tới bùng binh với cờ hoa và biểu ngữ mang nhiều thứ tiếng: Việt, Pháp, Anh, Trung Quốc… Tiếng chân không, tiếng dày dép hoà lẫn những tiếng còi giữ nhịp và cả những tiếng hô đi đều bước: “Một, hai” rất hăng hái. Đội ngũ công nhân tề chỉnh nhất, nam nữ cùng đội mũ lưỡi trai vải mềm, sơ mi ngắn tay trắng, quần xanh, đồng phục như nhau, trong khi đó các bác nông dân từ ngoại thành vào vẫn dân dã thoải mái với áo nâu, quần vải, có bác còn đem theo cả điếu cày, cả những quả bầu khô đựng nước uống. Anh em thợ thuyền lao động chân tay tự do như thợ xẻ, thợ nề, thợ mộc, thợ sơn cá thể…, kể cả những anh chị làm vệ sinh, quét chợ cũng được tập hợp thành các khối với áo quần đủ kiểu, đủ màu sắc khác nhau, khí thế không thua kém bất cứ đoàn nào kể cả so với những đoàn, những đội thanh niên, sinh viên, học sinh sôi nổi, nổi bật với vẻ trẻ trung và áo quần gần như là đồng phục. Các đoàn phụ nữ - dù là nhà buôn hoặc viên chức - đều tươi tắn như hoa với những tà áo dài tha thướt đủ màu. Chị em tiểu thương các chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, Cửa Nam, Bạch Mai… cố ý mặc toàn áo dài tứ thân cổ truyền của dân tộc với hai vạt trước vắt bỏ giọt rất nền nã. Giới trí thức, văn nghệ sỹ tuy có vẻ giản dị nhưng cũng vẫn lịch sự với cà vạt tề chỉnh, mũ mềm hay mũ phớt trên đầu. Nhiều nghệ sĩ ôm cả đàn, cả kèn đi theo, vừa đi vừa say sưa đàn hát. Trong khi đó, các cháu thiếu nhi cũng hùng dũng, tưng bừng tiến bước. Có đội đã sớm kiếm đâu được cả trống "ếch" và kèn đồng. Tất cả vừa đi vừa nổi trống, rúc kèn sôi động. Cũng trong khi ấy, những tiếng hô khẩu hiệu vẫn liếp tục liên liếp vang lên không dứt từ tất cả các khối đoàn thể, nhà trường, xí nghiệp, khu phố, cơ quan. . . "Việt Nam Độc lập tự do muôn năm! ". "Nước Việt Nam là của người Việt Nam!". "Độc lập hay là chết!”. “Hoan hô, ủng hộ Chính phủ do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch!". " Việt Nam là một dải thống nhất Bắc - Trung – Nam”.
Cho tới gần 13 giờ, các đoàn người đã tiến vào quảng trường, còn tràn cả ra các đường phố chung quanh. Nắng đã khá chói chang nhưng rừng người với rừng cờ, rừng băng rôn, biểu ngữ và muôn ngàn tiếng hát, tiếng reo và khẩu hiệu vẫn không hề khác hồi sớm xuống đường, nếu không muốn nói lúc này khi tất cả đã tập trung lại, sự náo nhiệt, tưng bừng dường như lại được nhân lên. Các nhân viên ban tổ chức đều ngạc nhiên: Đã công bố trên đài phát thanh "Bạch Mai” (hồi đó đài phát thanh nhỏ bé thô sơ thu được của Pháp hãy còn đặt ở sân bay Bạch Mai) là 14 giờ mới khai mạc, nay tất cả đã tới khá sớm. Vì sao vậy? Nhưng rồi cũng hiểu: Đây chẳng phải chuyện nhầm giờ, cũng chẳng phải là vì hội hè quá hấp dẫn. Tất cả chỉ chứng tỏ một niềm khao khát cháy bỏng: Việt Nam độc lập, chế độ mới, lãnh tụ Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc.
Và tất cả đã hợp thành những khối vuông san sát, tề chỉnh trước lễ đài vừa mới dựng xong giữa quảng trường. Đó là một kỷ lục khó lin: Lễ đài đã được cấp tốc dựng xong chỉ trong có chưa đầy 2 ngày. Lễ đài toàn bằng gỗ, vải đỏ bọc xung quanh, hình vuông cao khoảng hơn 3m, trên là sàn gỗ.Lan can cũng được bọc vải trắng. Một dải vải dài với những bông hồng vàng được kết rất đẹp treo uốn lượn trang trí bốn xung quanh lan can. Mặt chính của lễ đài, trên nền đỏ có đính một ngôi sao vàng rất lớn. Hai bên lễ đài còn có hai giá cao với hai lư hương khá to. Trầm đã được đốt lên, khói xanh uốn lượn bay ngào ngạt. làm cho khung cảnh lễ đài càng thêm tôn nghiêm,đẹp mắt. Đứng bảo vệ chung quanh dưới chân lễ đài là một đội danh dự. Các anh là một đơn vị Giải phóng quân, mặc sơ mi cộc tay và quần soóc màu cỏ úa, chân mang dép da, toàn là những chiến sỹ từ chiến khu mới về. Anh em đã có nhiều công trạng oanh liệt trong các trận Na Ngần, Phai Khắt, Bắc Sơn, Vũ Nhai vừa qua. Ở vòng ngoài đội danh dự còn một đội khác mặc thường phục mang súng ngắn, đó là Đội Thanh niên Hoàng Diệu cốt cán của Đảng.
Trong lúc đó có một toán người cao lớn, da đỏ au đeo máy ảnh đi len lỏi giữa các khối người dự mít tinh. Đó là mấy người Mỹ trong tổ chức OSS (phái bộ tiền trạm của quân Mỹ có nhiệm vụ vào Việt Nam giải cứu tù binh Mỹ do Nhật bắt và chuẩn bị cho công việc giải giáp quân đội Nhật). Nhóm này do viên Thiếu tá Mỹ Archimedes L.A Patti đứng đầu. Patti đã từng được gặp Bác Hồ hồi Bác còn ở Hoa Nam, Trung Quốc. Nay Patti cũng được mời đứng vào nhóm các khách bên lễ đài, nhưng Patti đã xin được đi tự do bên ngoài. Về sau này viết hồi ký “Tại sao Việt Nam”, Patti đã có những nhận xét khá trung thực về nhiều công việc của chúng ta, riêng trong buổi lễ lớn này Patli đã viết rất thực: “… Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong, từng đoàn lớn, nhỏ lũ lượt dần dần kéo tới quảng trường… Ở chỗ này là cả một khối trí thức, ở chỗ lọ là viên chức, hoặc thương gia, kỹ nghệ gia… ở chỗ kia là dân chúng các làng ngoại ô, có cả đoàn là dân tộc miền núi với y phục địa phương của họ, và nông dân thì trong những bộ khăn áo cổ truyền…”, "Trong khi chờ đợi Cụ Hồ và các quan chức tuỳ tùng tới, tôi đã nhìn thấy cả một nhóm cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh đen, có cả các chức sắc mang khăn quàng và vải diềm đỏ. Cách họ không xa là các nhà sư Phật giáo khoác áo cà sa màu vàng, rồi đền các chức sắc Cao Đài, mặc áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ... ", “... Mặt trời đã lên cao. Không khí đã có phần oi bức. Nhưng đôi khi cũng có những cơn gió nhẹ làm phấp phới cả biển cờ đỏ trên quảng trường…".
Đồng hồ đã chỉ 13 giờ 14 phút. Bỗng có nhiều tiếng còi từ xa, rồi cả tiếng hô chỉnh đốn hàng ngũ trong tất cả các đoàn trên quảng trường. Một số cán bộ tất bật chạy ra phía con đường từ cột cờ thành cổ đi tới. Nhân dân đều nhìn ra và càng hồi hộp. Nhiều người ở phía ngoài đã nhìn thấy mấy chiếc Citroen màu đen chạy vào quảng trường, hai bên tháp tùng có hai đội vừa là đội danh dự vừa là đội bảo vệ mang toàn súng sáu, đi xe đạp. Họ đạp xe rất thẳng hàng và đều tăm tắp, mặt mũi anh nào cũng hết sức trang nghiêm và cả cực kỳ kiêu hãnh.
Đoàn xe tiến thẳng về phía lễ đài. Rừng người vừa mới rẽ ra lấy lối cho xe vào đã nhanh chóng khép kín lại. Phía ngoài không còn nom thấy gì nữa.
Thế rồi có tiếng hô lớn phát ra từ phía lễ đài: "Bồng súng… Chào!". Tiếp đó là: " Chào cờ… Chào ! " Ngay tức khắc muôn ngàn tiếng xôn xao náo nức đang như biển sóng lập tức im phắc. Và bản Tiến quân ca cất lên hết sức hùng tráng. Tất cả hơn nửa triệu con người lập tức cùng đưa phắt các nắm tay lên ngang tai để chào lá cờ đỏ sao vàng nay đã chính thức trở thành cờ của Tổ quốc. Nhiều tiếng hái cũng bật lên trong biển người theo bài Quốc ca, từ những giọng còn rất trẻ cho tới những giọng đã rè đi vì năm tháng chất đầy, nhưng tất cả đều như có một sức mạnh lay động lạ lùng làm cho bản Quốc ca càng vang động cả một góc trời, những tâm hồn đều như cùng bay lên. Không ít người vừa khóc vừa hát vì quá xúc động. Đáng chú ý là ngay gần đó, ở cả 3 ba phía đều vẫn còn mấy cơ sở của quân đội Nhật và viên chức Pháp (ở Sở Thể dục thể thao, Toà nhà tài chính, Trường Trung học Albert Saraut…) nhưng họ đều im thít không giám có bất cứ dấu hiệu khiêu khích hoặc phá hoại. Tất nhiên cũng đã có lực lượng mật của ta bám sái theo dõi từ trước rất chặt chẽ.
Khi lễ chào cờ vừa kết thúc, từ trên lễ đài bắt đầu vang lên một giọng Quảng Bình rất trang nghiêm trân trọng giới thiệu Cụ Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của nước nhà. Lập tức biển người xôn xao hẳn lên rồi những tiếng reo như nổ bùng. Cả một rừng cánh tay cùng giơ lên, múa lên trong muôn ngàn tiếng hô vang cuồng nhiệt: "Ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh!", "Chủ tịch Hồ Chí Minh vạn tuế”; và tất cả những khối, những đoàn người đứng gần lễ đài đã nom rõ hơn: Trên lễ đài, Cụ Chủ tịch đang tiến đến trước micro. Tất cả đều vô cùng ngạc nhiên: Không phải là một vị oai phong, cao lớn, hùng dũng, hoặc sang trọng nào, mà là một vị chạc năm mươi nhăm tuổi, mảnh mai, vô cùng dản dị với bộ đồ ka ki vàng nhạt bốn túi, cổ cao, đầu trần. Trên gương mặt hơi hao gầy và như còn thoáng xanh màu sốt rét của rừng núi nổi lên một vầng trán rộng mênh mông. Và nhất là đôi mắt - một đôi mắt sáng láng lạ lùng - đôi mắt của một trí tuệ siêu việt và của một trái tim tình cảm bao la đến nỗi đứng dưới nhìn lên nhiều ngườiđã phải thốt lên "Ôi, đôi mắt Cụ như sao!". Và bộ râu mềm mại lơ thơ trên mép, dưới cằm đã tạo thêm cho người một vẻ hiền triết hết sức Việt Nam và Á Đông. Gương mặt ấy, dáng vẻ, phong thái ấy, dù chưa nói câu gì, Cụ đã gần như ngay lập tức chiếm được tất cả cảm tình, niềm tin yêu lớn, thậm chí cả tâm hồn của hàng triệu quần chúng nồng nhiệt đang hướng cả về Người.
Mỉm cười, nụ cười hiền hoà vô cùng bao dung, Cụ Chủ tịch có ý chờ để đồng bào ngưng mọi lời hoan hô. Nhưng cả gần triệu con người vẫn tiếp tục hò reo mãi như không dứt. Patti đã phải viết tiếp trong "Tại sao Việt Nam”: “…Cụ Hồ đang đứng đó, mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm vóc nhưng thực là vĩ đại trong sự hoan hô, ủng hộ cuồng nhiệt của nhân dân Cụ…”.
Và trong các khối đoàn thể, nhân dân dưới lễ đài lại nổi lên những câu hỏi với tất cả niềm vui sướng: "Này, có phải là Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy không?", "Trán của Cụ đúng là vầng trán vũ trụ”… "Người nhà trời xuống giúp nước ta đấy, bà con ơi, thật là vạn hạnh, vạn hạnh! Hồ Chí Minh rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh! Còn ngờ ngợ gì nữa....".
Nhưng biển người rồi cũng phải im lặng để nghe vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử:
- Hỡi đồng bào cả nước!
Giọng Cụ ấm, và vang sáng lạ lùng. Cả biển người như nuốt lấy từng lời của Cụ.
- … “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ… Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng đã nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được sự tự do và bình đẳng về quyền lợi…Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Bên dưới lễ đài, trong khối trí thức có nhiều tiếng xì xầm đầy xúc động. Ông Bùi Kỷ lúc đó 48 tuổi, một Giáo sư lớn, Nhà nghiên cứu Văn học hàng đầu toàn quốc ghé tai ông Đặng Thai Mai, một nhà trí thức, Giáo sư, Nhà lý luận phê bình Văn học nổi tiếng, nói: "Thật tuyệt, Cụ đã dụng ý mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước mình bằng trích hai câu bất hủ của tuyên ngôn Mỹ và Pháp, cho thấy Cụ Hồ luôn đặt sự nghiệp Cách mạng Việt Nam ta gắn liền với thời đại…". Ông Đặng Thai Mai đồng ý và nói thêm: "Với trích ấy, Cụ Hồ còn muốn nói rõ: Cuộc cách mạng của chúng ta cũng là bước tiếp những gì là vĩ đại và nhân đạo mà thế giới đã làm, đồng thời Cụ cũng tỏ rõ cách mạng của chúng ta cũng là một cột mốc cho sự phát triển lịch sử giải phóng con người…".
Trên lễ đài, vẫn với giọng nói hết sức ấm áp, vang sáng và đầy xúc cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc qua đoạn viết về các tội ác của Pháp rồi Nhật và đọc tới khát vọng độc lập, tự do của dân ta với cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành công. Rồi đột nhiên, ngừng lại, ngước cặp mắt sáng láng tuyệt vời, Bác cất tiếng ân cần hỏi:
- Tôi nói, Đồng bào nghe rõ không?
Lập tức cả biển người như bùng lên reo vang:
Có! Có ạ! Có, có ạ!..
Những vị cao niên râu tóc bạc phơ, những nhà văn hoá lớn, những cán bộ đoàn thể lại hết sức bất ngờ. Chưa bao giờ mọi người được chứng kiến hoặc được đọc trong sách báo này cảnh tượng như thế này trong một đại Quốc lễ. Nay chỉ có ở ta. Phải, chỉ có ở ta. . . Không xúc động, không tự hào sao được! Ai ai cũng hiểu: Dù chỉ là một sự kiện rất nhỏ và hết sức giản đi ấy nhưng cũng đã đủ chứng tỏ quần chúng nhân dân ta đã ngay tức khắc hoàn toàn đón nhận Cụ là lãnh tụ của mình, đổi lại chỉ với câu hỏi hết sức giản đi và dân dã như cha hỏi con, như bác hỏi cháu, như anh hỏi em trong nhà. Cụ cũng đã tỏ rõ mình là người gần gũi và yêu quý nhân dân như thế nào. Không một nghi thức nào ngăn được sự quan tâm cũng như tình cảm của Cụ đối với nhân dân.
Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tiếp tới phần cuối của bản Tuyên ngôn Độc lập:
- “... Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập! Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Khi Cụ vừa đọc hết cả bản Tuyên ngôn Độc lập, cả biển người như lại nổi sóng với những tiếng hô vang dội, dường như không dứt: "Hồ Chủ tịch muôn năm!". Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!"…Và nhiều người lại không thể không thốt lên với nhau: “Áng văn lập quốc vĩ đại này sẽ mãi mãi là hành trang tinh thần của dân tộc Việt Nam ta trên con đường giữ gìn độc lập - tự do và xây dựng phát triển đất nước!". Về sau này nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trên thế giới còn tôn vinh bản Tuyên ngôn Độc lập do chính Cụ Hồ viết là mốt áng văn chính trị tuyệt vời, đã trở thành một trong những cống hiến nổi liếng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp theo, ông Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ lâm thời đã vào Huế nhận sự thoái vị của Vua Bảo Đại - ông Vua cuối cùng của nhà Nguyễn), lên đọc lại Bản Chiếu thoái vị của Vua Bảo Đại do chính Vua Bảo Đại trao (đã đọc trước cuộc tập hợp rất lớn dân chúng trước Ngọ môn - Huế ngày 30/8/1945 vừa qua). Đọc xong, ông Trần Huy Liệu hai tay giơ cao cho toàn thể đồng bào trong cuộc đại lễ lịch sử này được tận mắt trông thấy cả ấn, cả kiếm hai báu vật thiêng liêng tượng trưng cho quyền lực quốc vương đã được ông Bảo đại trân trọng trao lại cho đại diện của Chính phủ mới của nhân dân. Những làn sóng hoan hô lại dậy đất: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!", "Hồ Chủ tịch muôn năm!".Sau đó, ông Võ Nguyên Giáp khi ấy là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đọc danh sách Chính phủ lâm thời, rồi các thành viên Chính phủ tuyên thệ.
Đại lễ Độc lập của đất nước đã kết thúc trong muôn vàn tiếng reo vui và hoan hô dậy trời đất. Nhiều người dân xúc động lại trào nước mắt. Nhiều cụ già râu tóc bạc phơ cùng nhắc lại với nhau: Trong lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, mỗi triều vua thay đổi nhau, hoặc khi phục quốc sau những năm mất nước, những năm dài bị đô hộ cũng đã có những lễ lớn, thậm chí rất lớn, nhưng thực chất vẫn chỉ là những buổi lễ chuyển giao từ một triều đại phong kiến vua quan này sang một triều đại khác như thế. Bây giờ hoàn toàn khác, một đại lễ "khai sinh", mở đầu cho một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cộng hoà và dân chủ - kỷ nguyên chính quyền của nhân dân, vì nhân dân. Đây chính là điều vĩ đại nhất của đại lễ mùng 2 tháng 9 năm 1945 mà lịch sử sẽ còn đời đời ghi nhớ.
Khi rời khỏi quảng trường, tất cả mọi người đều thấy rõ hơn khu đất này, quảng trường này từ nay mặc nhiên đã đi vào lịch sử như mảnh đất thiêng. Quảng trường Ba Đình sẽ luôn luôn toả sáng trên cả nước. Bởi đây là nơi Chính phủ lâm thời đã chính thức long trọng tuyên cáo cùng thế giới về nền độc lập của Việt Nam, một Việt Nam hoàn toàn khác xưa - một Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - không những thế, một đất nước, một dân tộc đã đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Đây cũng là nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh - người yêu nước, cứu nước vĩ đại đã lần đầu chính thức ra mắt trước toàn thể nhân dân mình, ngay lập tức Người đã được toàn dân đón nhận cực kỳ nồng nhiệt. Bởi vậy ai ai cũng tin rằng quảng trường này sẽ mãi mãi gắn liền với toàn bộ cuộc đời anh hùng cùng sự nghiệp cách mạng lớn lao, bất diệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như mãi mãi gắn liền với sự nghiệp chung của đất nước.
Rời quảng trường, rừng cờ đỏ lại toả đi phấp phới khắp thành phố. Tiếng hô khẩu hiệu và cả tiếng đàn, tiếng hát lại tiếp tục vang lên và lan toả đi các hướng.
Xuống lễ đài, trước khi lên xe, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhẹ nhàng hỏi đồng chí Trường Chinh:
- Tình hình các nơi khác thế nào, chú đã nhận được điện báo gì chưa?
Đồng chí Trường Chinh báo cáo rất nhanh:
- Thưa, mít tinh Huế tốt, đồng bào dự lễ rất đông vui, ủng hộ chính quyền mới nhiệt liệt. An toàn cả. Bọn biệt kích Pháp nhảy dù xuống định liên lạc với lực lượng Nam triều cũ, ta đã bao vây chặt. Thưa Bác, Sài Gòn cũng đông vui lắm. Đồng bào cũng vô cùng hăng hái… Nhưng cuối lễ, núp sau quân Anh vào giải giáp Nhật, bọn Pháp đã cho tay chân gây rối. Có súng nổ. Các đồng chí xứ uỷ đã giải quyết xong. Nhưng tình hình vẫn còn căng.
Bác hỏi tiếp:
- Quân Tưởng Giới Thạch do Đồng minh cho vào ta giải giáp Nhật ở miền Bắc đã tới đâu rồi?
- Thưa, họ đã vượt qua ải Nam quan, đang xuống Chi Lăng. Đáng lo là quân La Hán còn kéo theo cả hàng ngàn, thậm chí hàng vạn dân Tầu đói khát đi theo cùng "Hoa quân nhập Việt" để…vơ vét. Mà dân ta còn đang chưa hết chết đói. Nhưng đáng chú ý hơn, La Hán còn kéo theo một bọn đảng phái bệ rạc của một số người Việt Nam chạy trốn Pháp sang Trung Hoa ẩn náu, kiếm cơm và chỉ ngồi ngoài biên giới nói trạng, chẳng hoạt động chút nào cho đất nước. Nay bọn ấy đang hí hởn định núp lưỡi lê La Hán trở về, chắc chắn là muốn sẽ tranh giành với ta vai trò lãnh đạo và quyền lực trong Chính phủ…
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất bình tĩnh:
Thôi được, ta hãy về. Sẽ họp Trung ương ngay ngày mai, bàn chống giặc đói, chống giặc dốt, nhưng đồng thời cũng sẽ phải tính tới mọi hiểm họa đang tới trước mặt.
(Còn nữa)
PHẦN I
NHỮNG GIỜ PHÚT KHÔNG THỂ NÀO QUÊN TRONG NĂM 1969
Hà Nội. Mùa hè năm 1969.
Đã 24 năm qua đi, gần một phần tư thế kỷ, nếu tính từ năm 1945 lịch sử.
Năm nay Bác đã 79 tuổi, sức khoẻ giảm sút nhiều. Có lẽ dấu hiệu quan trọng đầu tiên về sự sa sút sức khỏe và bệnh tật ấy là trận ốm năm 1966. Năm ấy, Bác đi thăm đồng bào Thái Bình về đã bị co thắt động mạch não, liệt nhẹ nửa người. Các bác sĩ giỏi nhất đã được tập trung hết lòng cứu chữa. Bác đã đỡ nhiều, tuy nhiên từ đó việc đi lại của Bác nhiều khi đã phải dùng một cây can nhỏ (gậy cầm tay của những người già yếu). Cũng từ đó, Bác được Bộ Chính trị liên tục hết lòng chăm nom thuốc thang. Nước bạn Trung Quốc cũng đã mời Bác sang chữa bệnh. Bản thân Bác cũng chăm luyện tập thân thể hơn với một nghị lực rất lớn.
Buổi sáng ngày 10 tháng 5 năm 1969, như thường lệ, từ 5 giờ 30 phút Bác đã dậy để lập thể dục. Đồng chí Vũ Kỳ, người thư ký hết sức thân tín của Bác, bao giờ cũng đã đợi sẵn ở chân cầu thang ngôi nhà sàn để đón Bác. Thường mọi hôm Bác còn gọi cả đồng chí Tô (tên gọi thân mật của đồng chí Phạm Văn Đồng) ở ngôi nhà xây hai tầng ngay gần bãi xi măng bóng rổ trong Phủ Chủ tịch. Nhưng hôm nay đồng chí Tô dậy muộn vì tối qua bận làm việc quá khuya. Để đồng chí Tô ngủ tiếp, hai Bác cháu cùng nhau tới đường Xoài tập một hồi, rồi quay trở lại.
Đi bộ xong, Bác còn tưới cây, cho cá ăn ở hồ xong mới vào để điểm tâm rồi mới trở lại nhà sàn làm việc. Đồng chí Kỳ vẫn cẩn thận cùng đi theo Bác lên từng bậc thang để sẵn sàng đỡ nếu Bác lỡ xảy chân. Trước khi đồng chí Kỳ trở xuống, Bác quay lại dặn: Sáng nay Bác bận việc, không tiếp khách. Ai hỏi gì, xin lui lại chiều hoặc sáng mai.
Đồng chí Kỳ nhớ rồi: Sáng nay là ngày 10 tháng 5, như thường lệ từ năm 1965 tới nay, hàng năm Bác vẫn sửa lại bản Di chúc đã viết từ năm đó. Trên góc trang đầu của bản Di chúc, Bác đã ghi mấy chữ "Tài liệu tối mật”. Là thư ký riêng, đồng chí Kỳ đã được Bác đưa cho giữ bản “Tài liệu tối mật” ấy mỗi khi Bác đi công tác hoặc sang Trung Quốc chữa bệnh. Năm 1965, Bác vẫn còn khoẻ mạnh, nhưng chiến tranh đang có chiều hướng ác liệt hơn. Mỹ đã đổ thêm quân vào miền Nam khá nhiều và bắt đầu đánh bom cả ra miền Bắc. Hải quân chúng đã bắn phá một số điểm trên bờ biển nước ta. Bọn biệt kích liên tục được chúng tung ra miền Bắc. Chiến tranh rõ ràng đã lan ra cả nước và ngày càng khốc liệt. Do đó rất cần có cái nhìn vững vàng trên toàn cuộc và rất cần sự động viên lớn hơn nữa. Toàn Đảng,toàn dân quyết chiến đấu, dù gian lao, cực khổ đến đâu. Mặt khác, về phần mình, năm ấy tuổi Bác đã cao, vì thế Bác đã viết Di chúc, nhưng chỉ ngắn gọn trong khoảng một ngàn chữ. Sự nghiệp cả một đời người nhìn lại, cộng với những tư tưởng lớn soi sáng cho cả những năm dài mai sau mà chỉ gói trong có một nghìn chữ, rất cô đọng. Tác phong sống và cả văn phong của Bác trong các tài liệu, cả báo chí, thơ ca… xưa nay vẫn thế: Hết sức giản dị nhưng cũng hết sức cô đọng và vô cùng sâu sắc. Qua bốn năm, đã sửa đi sửa lại bản di chúc này, năm nay Bác thấy vẫn cần sửa thêm.
… Trên nhà sàn, Bác kéo ghế ngồi trước bàn. Dù không được khoẻ, Bác vẫn rất ung dung, tao nhã, chòm râu hiền nhân và thông thái tuyệt đẹp. Bác cầm bút lên. Tâm hồn Bác thật bình tĩnh. Tư tưởng, trí tuệ Bác hoàn toàn sáng suốt. Bác đã nghĩ trước rồi, năm nay, trước tình hình mới Bác sẽ sửa lại đoạn mở đầu bản Di chúc: Nhấn mạnh hơn nữa, khẳng định hơn bao giờ hết: Chúng ta nhất định thắng, giặc Mỹ xâm lược nhất định thua. Chiến tranh càng ác liệt, điều đó càng phải khẳng định, phải chốt lại kiên quyết nhất. Năm nay, Bác cũng sẽ bổ sung, nhấn mạnh về sự đoàn kết thiêng liêng trong Đảng. Thật vậy, đó chính là yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nhân dân ta tới chiến thắng và xây dựng Tổ quốc.
Trong lúc đó, ở nhà dưới, đồng chí Vũ Kỳ bỗng nghe có chuông điện thoại liền nhấc máy lên nghe. Ông Kỳ nhận ra ngay người gọi ở đầu dây bên kia là Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Quân uỷ Trung ương. Vẫn như mọi lần, câu đầu tiên của đồng chí Văn (tên gọi thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) hỏi là đêm qua Bác ngủ có yên giấc không, sáng nay Bác ăn uống thế nào, Bác vẫn tập thể dục đều như mọi hôm chứ?. Rồi Đại tướng ngỏ ý muốn sang thăm sức khoẻ Bác. Đồng chí Kỳ cân nhắc: Mới cách đây một ngày, cũng trong trường hợp Bác đang làm việc, đồng chí Trường Chinh gọi điện đề nghị được gặp Bác. Không muốn Bác phải ngừng công việc của mình, ông Kỳ đã khéo léo nghĩ được một cách là mời đồng chí Trường Chinh đến cùng dùng bữa trưa với Bác rồi sẽ nói chuyện cả thể. Vậy hôm nay, có lẽ cũng lại đề nghị với đồng chí Văn như vậy chăng? Nhưng Bác đã dặn rồi, ai hỏi, xin lui lại. ông Kỳ bèn đề nghị với Đại tướng là đến chiều. Đại tướng đồng ý. Ông Kỳ mừng quá.
Buổi chiều, đúng hẹn, Đại tướng Tổng Tư lệnh tới. Dạo này đồng chí sang thăm Bác luôn luôn, hôm cả buổi, hôm ít nhất cũng nửa tiếng hoặc một giờ. Bác rất biết tấm lòng đặc biệt của đồng chí Văn, người đồng chí, người học trò yêu quý, gắn bó nhất của Bác kể từ khi Bác về Pắc Bó năm 1941. Bác đã sớm nhìn thấy ở đồng chí một con người trí thức cách mạng rất trí tuệ, rất trung thực và đầy tài năng trong xây dựng, chỉ huy quân đội, dù chưa bao giờ được đào tạo ở một trường quân sự nào.
Bác tiếp đồng chí Văn ở ngay dưới ngôi nhà sàn.Bao giờ cũng vậy, Bác ân cần và sốt sắng hỏi trước, dường như Bác có ý không muốn để đồng chí Văn hỏi về sức khoẻ của mình. Bác đã rất cố gắng làm sao cho được bình thường như trước đây với giọng ấm áp và hiền hậu:
- Thế nào chú, tình hình chiến sự trong kia mấy hôm nay ra sao? Việc các đồng chí trong ấy chuẩn bị để Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ ra mắt vào tháng 6 hoặc tháng 7, nay công việc tới đâu rồi?...
Cũng như tất cả mọi lần gần đây sang thăm Bác, e Bác mệt, đồng chí Văn chỉ báo cáo rất vắn tắt mọi việc và trong khi Bác chăm chú nghe, đồng chí Văn vẫn không quên thầm quan sát, ngắm nhìn thần thái Bác như mọi khi, để coi sức khoẻ Bác hôm nay có gì khác, có tiến triển gì không?. Hôm nay, đồng chí nhận thấy: Khi hỏi, khi nói, dù Bác đã cố giữ giọng cho được như xưa, nhưng vẫn không được đều cho lắm, có lúc nghe như yếu và nhỏ đi như hụt hơi hoặc tắc nghẹn lại trong một, hai giây. Đồng chí Văn không thể không thêm lo lắng và thầm xót xa. Các bác sĩ giỏi về chuyên khoa tim mạch, não đã được Bộ Chính trị bố trí thường xuyên bên Bác để săn sóc, trông nom, thuốc men hàng ngày, nhưng nay xem ra bệnh của Bác chẳng hề lui, sức khoẻ Bác vẫn có chiều giảm sút.
Thật vậy, đúng như đồng chí Văn đã đoán biết, dù Bộ Chính trị đã hết lòng quan tâm chăm lo, sau một năm xảy ra "sự cố” về tim mạch, sức khoẻ của Bác vẫn không có tiến triển gì rõ rệt. Ngày 15 tháng 7 năm 1967, Bộ Chính trị đã mở một cuộc họp bất thường bí mật cực kỳ quan trọng. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì cuộc họp này. Cuộc họp đã bàn, một mặt tăng cường hết lòng chăm lo sức khoẻ của Bác, mặt khác Bộ Chính trị nhận thấy tuổi Bác đã ngày càng cao mà bệnh tình lại như vậy, phải can đảm và thực tế nghĩ tới sự kiện cực kỳ đau lòng là Bác có thể không lâu nữa sẽ “ra đi”… Do đó phải tính tới việc lo liệu và phải có ngay quyết định lưu giữ thi hài Bác lâu dài cho nhân dân cả nước, nhất là miền Nam được “chiêm ngưỡng” Bác - vị Anh hùng vĩ đại của dân tộc, đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đánh bại kẻ thù ngoại xâm hung ác nhất, đồng thời chấm dứt mấy nghìn năm chế độ phong kiến lạc hậu, khai sinh ra nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Châu Á này.Đó là một nghị quyết lớn và cực kỳ khó khăn bởi nếu biết Bác sẽ không cho thực hiện. Đã tính hết mọi nhẽ. Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Bộ Chính trị quyết định lưu giữ thi hài Bác lâu dài và sẽ xây một ngôi Lăng của Người. Bộ Chính trị tin là toàn dân sẽ hoàn toàn ủng hộ, và cũng tin rằng lịch sử sẽ chứng minh cho quyết định này là hoàn toàn chính xác. Trong cuộc họp ấy, Quân uỷ Trung ương đã được trao nhiệm vụ lưu giữ thi hài Bác nếu vạn nhất Bác phải "nằm xuống". Bộ Kiến trúc được trao cho vai trò chủ yếu trong việc xây dựng Lăng, phải làm sao cho tương xứng với công ơn trời biển của Bác, với uy tín và lòng kính phục Bác của nhân dân ta, của bạn bè thế giới. Trong phân công nhiệm vụ, Bộ Chính trị còn tỉ mỉ hơn nữa: Đã chỉ định cụ thể đồng chí Nguyễn Lương Bằng trực tiếp theo dõi và chăm sóc sức khoẻ Bác hàng ngày. Đồng chí Lê Thanh Nghị được Bộ Chính trị phân công bí mật, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ sớm sang Liên Xô hội đàm đề nghị Bạn giúp đỡ ta đào tạo gấp một số cán bộ y tế chuyên về lưu giữ thi hài, đồng thời giúp ta những phương tiện chuyên dùng và thuốc men đặc biệt cần thiết trong công việc đó.
Sau cuộc họp tối mật, tối quan trọng ấy chỉ vài ngày, đồng chí Lê Thanh Nghị đã lên đường đi Liên Xô. Mọi yêu cầu của chúng ta về đề nghị Liên Xô giúp đỡ giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được Bạn đồng ý và cam kết sẵn sàng đào tạo cán bộ y tế cho Việt Nam. Một Tổ Y tế cũng được Quân uỷ cho thành lập gấp và đưa sang Liên Xô để học về lưu giữ thi hài lâu dài.
Tháng 8 năm 1968, sau một thời gian học tập, Tổ Y tế gồm 3 cán bộ, bác sỹ từ Mát-xcơ-va đã về đến Hà Nội. Bác sĩ Lê Ngọc Mẫn, một trong ba thành viên của Tổ Y tế, đã được điều ngay sang nơi Bác ở, tăng cường cho một bác sĩ vốn đã ở đây từ lâu - bác sĩ Nhữ Thế Bảo - để cùng trông nom sức khoẻ cho Bác. Còn hai bác sĩ: Nguyễn Gia Quyền và Lê Điều được Quân uỷ cho bổ sung thêm một số bác sĩ, y sĩ khác, thành lập một Tổ Y tế đặc biệt (do bác sĩ Quyền làm Tổ trưởng) có nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở vật chất làm các thực nghiệm khoa học trong điều kiện nước ta, để khi Bác “nằm xuống” sẽ có thể chủ động được công việc nếu Bạn chưa kịp sang.
Gần như song song với việc này, Quân uỷ đã quyết định làm một cơ sở thí nghiệm dựa vào Khoa Giải phẫu hình thể của Bệnh viện Quân y 108, mang biệt danh 75A; ngoài ra còn làm một cơ sở tương tự ở ngay Hội trường Ba Đình để đưa thi hài Bác tới làm Lễ Quốc tang mang mật danh 75B.
Song song với công việc bí mật làm hai cơ sở 75A, 75B, các việc chuẩn bị khác cho "đại sự” cũng đã được lo liệu rất chu đáo. Tuy nhiên, Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục hết sức chăm lo chu đáo về mặt sức khỏe cho Bác với niềm hy vọng và cầu mong là Bác sẽ ngày càng khoẻ mạnh và có thể kéo dài tuổi thọ.Nhưng tiếc thay, đau đớn thay, tới nay chỉ bằng mắt thường không phải của các nhà y học chuyên sâu, Đại tướng và nhiều người khác đều thấy sức khoẻ Bác giảm sút nhiều…
Sợ Bác mệt, báo cáo vắn tắt về tình hình chiến sự xong, đồng chí Văn chuyển sang báo cáo với Bác việc sẽ có một đoàn lớn đại biểu của toàn quân sẽ tới chúc thọ Bác nhân dịp ngày sinh nhật lần thứ 79. Bác sẽ gặp gần như đầy đủ các đồng chí trong Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, chỉ trừ một số đồng chí đã vào Nam. Bác tỏ ra rất vui…
Khi đồng chí Văn đứng dậy xin phép Bác ra về, không ngờ, vẫn như mọi khi, Bác lại nhắc lời đề nghị tha thiết của Bác từ mấy năm nay: Hãy cố gắng cùng các đồng chí Bộ Chính trị tổ chức cho Bác được vào thăm đồng bào trong Nam. Đầy xúc động, Bác nói:
- Chú Văn ạ, chưa vào thăm đồng bào yêu quý ở miền Nam được, sau đây nếu có chết đi, làm sao mà Bác có thể dễ dàng nhắm mắt?
Gần như bàng hoàng, nhưng đồng chí Văn cũng chỉ biết hứa về phần mình sẽ đề nghị tích cực hơn nữa với các đồng chí có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong đáy lòng mình, một nỗi xót xa đã ngập đầy. Chiến tranh thì ngày càng ác liệt, khó khăn càng nhiều hơn, chưa nói tới những trở ngại khác, chỉ riêng sức khoẻ của Bác năm nay - mặc dầu Bác nói vẫn đủ khả năng đi - rõ ràng là càng kém hơn mọi năm. Vậy ai dám tổ chức đưa Bác đi, dù hiểu rất rõ tấm lòng của Bác yêu quý đồng bào miền Nam sâu sắc không có gì so sánh nổi. Bác ơi, cầu xin hãy cảm thông cho tâm trạng hiện nay của nhân dân, của tất cả học trò, tất cả những người đồng chí, những người chiến sĩ vô cùng tin yêu Bác..
Ngay hôm sau, ngày 11 tháng 5 năm 1969, sớm hơn ngày sinh của Bác mấy ngày, đúng như lời đồng chí Văn, một đoàn lớn gồm toàn các tướng lĩnh, chỉ huy, lãnh đạo thuộc đủ các quân khu, quân binh chủng đang có một cuộc họp quan trọng tại Hà Nội đã dừng lại một buổi, cùng nhau tới Nhà khách Phủ Chủ tịch để chúc thọ Bác. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị, Lê Văn Lương, Song Hào, Quang Đạo… cùng đến chúc mừng Bác. Trong khi đợi Bác, mọi người ngồi trò chuyện vui vẻ. Nhiều người không quên nhắc lại một số buổi lễ sinh nhật trước đây của Bác. Đó là sinh nhật Bác năm 1946, năm độc lập đầu tiên, ở Hà Nội - Bắc Bộ Phủ, Bác đã tiếp các đoàn đại biểu của sinh viên, học sinh, thiếu nhi và tự vệ. Rất vui vẻ, Bác đã tặng các cháu thiếu nhi một cây hoa mai và nói: “mai chủ yếu là ở miền Nam của Tổ quốc". Trong lúc đó, ngoài đường phố, nhiều đoàn thanh niên xếp hàng tuần hành thị uy trước những nơi có phái đoàn quốc tế, vừa đi anh em vừa hát vang các bài ca cách mạng và liên tục hô vang: "Hồ Chủ tịch muôn năm!", "Nước Việt Nam độc lập muôn năm". Một số phóng viên Mỹ và cả phóng viên Pháp đi theo Xanh-tơ-ny (đại diện Chính phủ Pháp sang ta thảo luận nhiều vấn đề cấp bách) chứng kiến cảnh ấy đã phải phát biểu: "Cụ Hồ quả là có một uy tín rất lớn. Không phải ở nước nào trên thế giới cũng có được một lãnh tụ như vậy"… Tới cuối năm 1946, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Chính phủ bí mật dồn lên chiến khu. Những lễ mừng sinh nhật Bác từ đó làm rất giản dị. Trong lễ mừng sinh nhật năm 1949, Bác đã làm một bài thơ, nay nhiều người vẫn còn nhớ:
Vì nước chưa nên nghĩ tới nhà
Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già
Chờ cho kháng chiến thành công đã
Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.
Cho tới 19 tháng 5 năm 1965, Bác đã trên 75 tuổi. Dịp ấy Bác đi công tác xa, một cán bộ cảnh vệ đã mạnh dạn làm mấy câu thơ dâng Bác:
Chúng con chúc Bác sống trăm năm
Để cứu non sông, để cứu dân
Đuổi hết những loài quân xâm lược
Vạn phúc Việt Nam vạn phúc hồng.
Mọi người còn đang vui chuyện thơ, văn, thì cửa phòng bên mở rộng. Bác gắng làm ra vẻ nhanh nhẹn bước ra. Vẫn nụ cười rất tươi và hiền hậu, vẫn bộ bà ba nâu giản dị và đôi dép cao su quen thuộc. Tuy nhiên, mái tóc Bác đã bạc nhiều hơn, chòm râu thông thái cũng vậy và khuôn mặt cũng hao gầy hơn. Tất cả mọi người đều đứng cả dậy reo vang cùng những tiếng hô xúc động kéo dài: "Hồ Chủ tịch muôn năm!”, "Bác Hồ kính yêu muôn năm!"… Niềm tin yêu và tôn kính tràn ngập khắp căn phòng. Cũng giống như mọi khi, Bác mỉm cười dang cả hai tay rồi hạ xuống có ý bảo xin ngừng lại. Nhưng Bác phải vẫy lay tới mấy lần tiếng hô, tiếng reo mới chấm đứt. Tất cả mọi người đều vẫn đứng. Bác ôn tồn nói:
- Mời các chú ngồi. Các chú khoẻ không?
Tất cả cùng đáp vang:
- Thưa Bác khoẻ ạ.
Bác gật đầu:
- Vậy tốt lắm, Bác rất mừng.
Đến đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng lên phát biểu chúc Bác sống lâu muôn tuổi để lãnh đạo toàn quân, toàn dân quyết định đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp.
Trong khi Đại tướng phát biểu, mọi người vẫn ngắm nhìn Bác như ngắm nhìn một người Cha với tất cả niềm tin, niềm vui, nhưng cũng với cả những nỗi buồn lo thầm kín về sức khoẻ của Bác.
Tiếp đó, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Phó Tổng Tham mưu trưởng đứng lên chúc thọ Bác. Đó là người “anh hùng” từ cuộc vượt ngục Nghĩa Lộ trước Tổng khởi nghĩa cho tới trận chiến đấu oanh liệt hai tháng trời trong lòng Hà Nội tháng Chạp năm 1946 chống Pháp… rồi tới Điện Biên Phủ với trận Đồi Độc Lập vang dội và tiếp đó là trận cắt đứt sân bay “cái dạ dày" của tập đoàn cứ điểm. Đồng chí Vũ có đặc điểm: Nói năng sang sảng, rất oai dũng. Hôm nay đồng chí được phân công thay mặt anh em ôm một bó hoa lớn lên chúc thọ Bác nhưng xúc động quá, đồng chí nói khá vấp váp. Bác cười, rút một bông hoa đưa tặng lại cho đồng chí Vũ, rồi làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi:
- Này, Hổ tướng mà nói như chim vậy à?
Cả hội trường vỡ oà trong tiếng cười vui vẻ. Bác vẫn thế: Cực kỳ trí tuệ, cực kỳ nghiêm túc và kiên quyết trong mọi công việc, nhưng đồng thời cũng luôn hóm hỉnh, thông minh trong quan hệ bạn bè, đồng chí và nhân dân. Không khí buổi chúc thọ Bác càng thêm vô cùng ấm áp. Tất nhiên nhiều đồng chí cũng như đồng chí Văn bữa nọ vẫn không khỏi âm thầm đau buồn nhận thấy tiếng nói của Bác hôm nay đôi lúc vẫn nhỏ đi và dường như bị ngắt lại một chút.
Sáng hôm sau (13- 5-1969), Bác lại có cuộc tiếp khách khác. Ban Bí thư Trung ương định báo cáo với Bác xin lui cuộc tiếp này vài ngày nữa vì e Bác mệt. Tuy nhiên khi hỏi ai muốn gặp, được trả lời là đồng chí Xuân Thuỷ vừa lừ Hội nghị Pa-ri trở về báo cáo, Bác bảo mời sang ngay. Và đồng chí Xuân Thuỷ đã tới không phải chỉ một lần mà theo chỉ thỉ của Bác còn phải tới lần thứ hai để Bác hỏi thêm nhiều điều cần thiết và góp ý với phái đoàn. Đồng chí Xuân Thuỷ đã luôn luôn ôm lấy bàn tay Bác và hứa sẽ chấp hành mọi lời chỉ giáo quý báu của Bác.
Đến đúng ngày 19 tháng 5, lại có hai người khách nữa xin được gặp Bác. Đó là chị Phan Thị Quyên, vợ anh Nguyễn Văn Trỗi và chị Lê Thị Vân phụ trách công tác thanh niên, sinh viên của Sài Gòn - Gia định.Hai người vừa trông thấy Bác đã chạy oà tới ôm chầm lấy Bác như những đứa con đi xa quá lâu ngày mới được trở về gặp Cha. Hai chị khóc, khóc mãi không thôi, khóc vì vinh dự, vì quá yêu kính Bác, khóc còn vì đã được nghe biết Bác đang đau yếu nhiều. Chiều hôm đó Bác đã trò chuyện, cùng ăn cơm với hai chị em. Khi hai chị ra về, Bác đặt tay lên ngực mình, nói với ông Vũ Kỳ: "Bao giờ cũng vậy, gặp các cô, các chú, các cháu trong Nam ra, Bác cũng vô cùng sung sướng và thấy khoẻ ra".
Sáng tháng 6. Bác đỡ bận rộn hơn, đồng chí Hà Huy Giáp tới gặp Bác xin chỉ thị về việc xuất bản sách "Người tốt việc tốt…
Bước qua tháng 7, Bác tiếp đồng chí Mac-ta Rô-hát - Chủ nhiệm báo Granma - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Cuba. Cuộc phỏng vấn hết sức tốt đẹp. Bác đã tâm sự với Mac-ta Rô-hát: "… Ở miền Nam chúng tôi, mỗi người, mỗi gia đình đều có nỗi đau khổ riêng. Gộp cả những nỗi đau ấy lại là nổi đau buồn của chính tôi. Tôi biết rằng tôi chưa làm tròn nhiệm vụ cách mạng của tôi với đồng bào miền Nam. Mặc dù vậy, tôi biết đồng bào miền Nam vẫn thương quý tôi như tôi rất yêu quý họ. Ở miền Nam, tôi không phải là Hồ Chủ tịch mà tôi là Bác Hồ".
Sau đó Bác đồng chí Sác-lơ Phuốc-nhê-ô, phóng viên báo Nhân đạo – cơ quan của Trung ương Đảng Cộng Sán Pháp. Bác cũng đã nói với Sác-lơ: "Nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trước hết vì có hai vũ khí lớn: Một là truyền thống chống xâm lược anh hùng hàng nghìn năm của Tổ quốc tôi và đó cũng là lòng yêu nước rất lớn Việt Nam; hai là chủ nghĩa cộng sản mà hai Đảng của chúng ta đang cùng theo đuổi, mà hạt nhân của nó theo chúng tôi là biết suy nghĩ và hành động theo phép biện chứng trên quan điểm duy vật".
Từ lâu, để giữ gìn sức khỏe cho Bác, Bộ Chính trị đã dành thời gian để Bác được nghỉ ngơi, chữa bệnh nên phần nhiều chỉ bố trí khách tới thăm sức khoẻ, hoặc làm việc nhẹ nhàng. Bác hiểu, tuy nhiên Bác vẫn coi trọng tất cả mọi cuộc tiếp xúc, và rất vui khi cảm thấy mình vẫn còn làm được nhiều việc hữu ích.
Bước sang tháng 8 (2-8-1969) Bác lại có cuộc gặp đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Bí thư Đảng bộ Sài Gòn - Gia định mới ra Hà Nội họp.
Sáng hôm ấy, cùng đi tập về, Bác dặn đồng chí Vũ Kỳ:
- Chú nhắc nhà bếp chiều nay làm cơm để Bác tiếp đồng chí Mười Cúc. Nhớ làm cho mấy món miền Nam. Mời cả chú Tô và cả chú nữa, ta cùng ăn cơm cho vui.
Đúng 16 giờ 15 phút đồng chí Mười Cúc tới. Bác đã đón sẵn ở dưới ngôi nhà sàn trong trang phục bà ba đen, một cặp kính trắng, đầu trần, đi dép nhựa giản dị. Đồng chí Nguyễn Văn Linh khoẻ mạnh và nhanh nhẹn bước tới ôm lấy Bác. Đã được nghe nói về sức khoẻ của Bác từ trong kia, bây giờ được gặp Bác, đồng chí Linh không khỏi cảm thương. Bác khoác vai đồng chí Mười Cúc cùng vào phòng họp của Trung ương và Bộ Chính trị dưới ngôi nhà sàn. Bác đã biết đồng chí Nguyễn Văn Linh lừ lâu, một con người chân chính, một trong những đồng chí lãnh đạo có đầu óc thông minh, xuất sắc của Đảng ta, vừa có tài năng, trí tuệ vừa có đức độ nên trong Nam ai ai cũng ca ngợi. Đồng chí Tô đã sang. Đồng chí Mười Cúc bắt đầu báo cáo cụ thể với Bác và đồng chí Tô về tình hình chiến trường miền Nam. Tất nhiên cũng chỉ là tóm tắt, khái quát vì đồng chí biết Bác đang rất yếu. Khi đồng chí kể đến những cuộc tàn sát dã man của Mỹ, nguỵ trên chiến trường miền Nam hiện nay, Bác đã không cầm được nước mắt. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nhiều lần phải ngừng lại và chính mình cũng phải rớm lệ - rớm lệ vì tấm lòng của Bác đối với miền Nam. Rồi đồng chí tóm tắt hơn nữa, sợ Bác nghe nhiều sẽ mệt.Sau khi dùng cơm xong, xin phép Bác ra về, đồng chí Mười Cúc bỗng được Bác cầm tay giữ lại:
- Bác đề nghị đồng chí khi trở vào hãy bàn với Trung ương Cục hoặc Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia định cố tìm cách cho Bác vào thăm bà con cô bác trong đó. Bác sẵn sàng nghi trang để địch khỏi nhận ra. Bác có thể sẽ cạo bỏ cả bộ râu này đi...
Hoàn toàn sững sờ, đồng chí Linh chỉ còn biết lặng người đi rồi thành thực thưa với Bác xin hãy thư thư cho. Tình hình hiện nay dẫu sao vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Và gần như nghẹn ngào, đồng chí Linh lặng người đi rồi thành thực thưa với Bác xin hãy thư thư cho bởi tình hình hiện nay dẫu sao vẫn còn rất nhiều khó khăn. Trong xúc động nghẹn ngào, đồng chí Linh càng hiểu hơn: Cho tới lúc này mặc dầu sức khoẻ đã kém đi như vậy nhưng Bác vẫn tiếp tục tha thiết yêu cầu được vào Nam thăm bà con cô bác. Miền Nam vẫn là niêmd trăn trở, nhớ thương khôn nguôi trong tim Bác.
Ba hôm sau (ngày 5-8-1969), Bác lại nói với đồng chí Vũ Kỳ có vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo cũng vừa từ miền Nam mới ra. Bác muốn tới thăm ông bà ấy. Ông Kỳ xin phép có ý kiến: Sức khoẻ Bác chưa được tốt, vậy nên mời ông bà ấy tới đây phải hơn. Bác lắc đầu. Theo ý Bác: Ông bà Thảo cũng đã có tuổi, vừa mới ra, cần được nghỉ ngơi. Bác cháu ta đến tận nơi mới là quý người. Rồi Bác nói thêm cho ông Kỳ rõ: Ông Thảo là một nhà tri thức lớn rất có uy tín ở cả Việt Nam. Tuy chưa phải Đảng viên nhưng ông bà đã công khai, tích cực tham gia phong trào yêu nước từ năm 1945. Ông Thảo đã bị chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm bắt giam ba lần, nhưng không hề sợ hãi, vẫn một lòng hướng về cách mạng. Năm 1968 vừa qua ông đã quyết dấn thân ra mật khu của cách mạng. Trong Đại hội Quốc dân miền Nam (như Quốc hội) vừa qua, ông Trịnh Đình Thảo được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Nghe Bác giới thiệu như thế, ông Kỳ hiểu ra ngay. Tuy nhiên ông cũng không khỏi thầm than: “Bác ơi, đang bệnh, đang yếu mệt vậy mà Bác vẫn chẳng nề hà bất cứ việc gì có thể làm cho sự đoàn kết và phát huy được tinh thần tất cả mọi người vì dân vì nước". Thế rồi ngày 5 tháng 8 năm 1969, đúng như mong muốn, Bác đã được đưa tới tận nơi ông bà Trương Đình Thảo đang nghỉ. Thấy Bác tới, ông bà Thảo đều hết sức ngạc nhiên, cùng chạy vội ra, chắp tay chào tỏ lòng kính trọng và hân hạnh. Bác cười rất tươi trong khi ông bà gần như vẫn vô cùng bối rối vì quá cảm kích trước sự viếng thăm:
- Ôi, thưa Bác, thật không sao ngờ Bác lại hạ cố như thế này. Vợ chồng tôi còn biết nói sao để bày tỏ niềm vinh dự và vô cùng sung sướng cũng như niềm tri ân lớn nhất của lòng mình.
Ngày 12 tháng 8 năm 1969. Sáng không có mưa rào nhưng vẫn lay bay và lại có gió. Các hàng cây xào xạc trong gió. Trời hơi lạnh. Thời tiết khá khác thường. Từ tối hôm trước, Bác được báo là đoàn cán bộ họp ở Pa-ri vừa về, có cả đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nay đang là cố vấn tối cao của đoàn ngoại giao ta.
Bác bảo đồng chí Kỳ chuẩn bị đưa Bác lên Nhà khách của Trung ương trên Hồ Tây để gặp phái đoàn. Đồng chí Kỳ lại mạnh dạn thưa, xin Bác cho mời các đồng chí ấy về đây. Bác nói là đoàn mới về chắc còn mệt, Bác cháu ta lên đó tốt hơn, vả lại từ Hồ Tây quay về Bác còn muốn tranh thủ xem nước lũ sông Hồng thếnào. Nghe nói năm nay mênh mông lắm, dân ngoài bãi đã phải chạy hết lên đê…Bác đã chỉ thị như thế, đồng chí Kỳ chỉ còn biết vâng lời, nhưng ông đã khéo léo bí mật gọi điện cho đồng chí Lê Văn Lương thông báo Bác đi gặp đoàn đồng chí Lê Đức Thọ. Nghe đồng chí Kỳ báo cáo và xin ý kiến, cân nhắc một chút rồi đồng chí Lương trả lời: Phải tuân theo yêu cầu của Bác, nhưng cần đem theo áo ấm cho Bác. Thế là chỉ một lúc sau đồng chí Kỳ đã kiếm được một chiếc áo bông khá dày đem theo… Khi Bác và các đồng chí cùng đi đến nơi, đồng chí Lê Đức Thọ và đoàn ngoại giao đều ùa ra đón. Ai cũng ngạc nhiên trách đồng chí Kỳ sao lại để Bác ra ngoài khi thời tiết thế này. Đồng chí Kỳ phải báo cáo lại mọi chuyện. Cả đoàn ngoại giao đều vô cùng cảm động trước tấm lòng của Bác với công việc và anh em ngoại giao. Bác ngồi xuống ghế, đồng chí Kỳ cẩn thận cầm chiếc áo bông rón rén đến khoác lên vai Bác. Trước khi nghe đồng chí Lê Đức Thọ báo cáo, Bác tươi cười hỏi anh em ngoại giao mới về có chuyện gì vui bên lề hội nghị kể cho Bác nghe. Thế là không khí trong phòng khách vui vẻ hẳn lên. Anh em cán bộ ngoại giao hào hứng thay nhau kể. Theo họ, Hội nghị Pa-ri y như cuộc "chạy việt dã" của các nhà ngoại giao. Ngay việc đầu tiên là địa điểm họp ở đâu, hai bên đã liên tục thi nhau "cò cưa" rất lâu. Đầu tiên Mỹ đề ra họp ở Giơ-ne-vơ (Thuỵ Sĩ), Việt Nam đề ra phnôm Pênh (Cam-pu-chia). Mỹ lại đưa ra: Niu Đê-li (Ấn Độ), Ja-kac-ta (In-đô-nê-xi-a), hoặc Yan-gôn (Miến Điện). Hà Nội lại đề ra Vac-sa-va (Ba Lan). Mỹ tiếp tục đưa ra danh sách khác: Ka-bun (Áp-ga-nix-tan), Cô-lôm-bô (Sri Lan-ka), Tô-ky-ô (Nhật), Bru-xen (Bỉ)… Cuối cùng, sau một tháng, hai bên mới nhất trí chọn Pa-ri. Địa điểm xong lại đến hình dáng bàn họp: Vuông hay bầu dục, hay tròn. Cũng mãi sau mới thống nhất được bàn tròn. Rồi lại đến thành phần hội nghị, càng gay hơn. Mỹ yêu cầu phải có đoàn của Chính phủ Thiệu ở Sài Gòn tham gia. Tới đây có thêm chuyện vui: Đồng chí Xuân Thuỷ của ta vốn luôn luôn có nụ cười trên môi, các nhà báo quốc tế đều gọi vui là "ông Trưởng Đoàn có nụ cười thường trực". Nhưng hôm ấy nụ cười ấy như biến mất. Khi Xia-rớt Ven (Cyruc Vance) - Trưởng phái đoàn Mỹ nêu lên ý kiến phải có phái đoàn của Sài Gòn (Thiệu), đồng chí Xuân Thuỷ đã nghiêm nghị bác bỏ luôn ý kiến này. Ha-ri-men (Harriman) - Thứ trưởng ngoại giao tham gia phái đoàn Mỹ tuyên bố liền: "Nếu thế, bom sẽ lại rơi trên đầu các ông". Mặt lạnh như tiền, đồng chí Xuân Thuỷ nói như gắt lên: "Ông doạ đấy hả? Ném bom trở lại ? Chúng tôi sẵn sàng bắn gục các ông ngay". Cố vấn Lê Đức Thọ đóng vai trò mềm mại hơn: "Các ông doạ bằng chiến tranh không được đâu. Chúng ta đánh nhau mãi rồi còn lạ gì nhau? Chúng ta đã đến đây là để hoà đàm mà!". Ha-ri-men ngồi im một lúc rồi tuyên bố: "Thôi được, tôi rút lại câu nói bom sẽ lại rơi trên đầu các ông"… Mọi người cười oà. Một chuyện khác: Cũng trong một cuộc họp, Ngoại trưởng Kít-xing-gơ - cố vấn bên phía Mỹ đã phản bác lại một số điều thoả thuận đã nhất trí trong cuộc họp trước. Đến lượt đồng chí Lê Đức Thọ nói, nhưng lần này ông không mềm mại nữa mà cáu và dùng cả những từ như: "ngu xuẩn", "lật lọng"… Kít-xing-gơ đã đáp lại: "Ông cố vấn (đồng chí Lê Đức Thọ) đàm phán mà nói như mắng tôi, ít nữa nếu chúng ta có hoà bình thì ông mắng ai nhỉ? Ông có mắng cán bộ của ông như thế bao giờ không?" Cố vấn Lê Đức Thọ điềm nhiên trả lời: "Cán bộ của tôi chẳng ai quay quắt, lật lọng mà phải mắng!”. Lại cười ồ cả lên. Vui quá. Nhưng đồng chí Kỳ cho biết Bác còn muốn ra xem sông Hồng nước lụt. Đồng chí Thọ bèn xin phép Bác được bắt đầu làm việc rồi còn xin chỉ thị của Bác.
Hơn một giờ nghe báo cáo xong, trước khi ra về, Bác khen ngợi các đồng chí trong phái đoàn đã "chiến đấu rất tốt, rồi Bác căn dặn thêm và nhấn mạnh về tính chiến lược hiện nay của công tác ngoại giao cần phải có nhiều sáng tạo hơn nữa cũng như kiên trì hơn nữa, lúc cương lúc nhu… để làm cho công tác ngoại giao thắng lợi. Đây cũng là một mặt trận góp phần không nhỏ vào chiến thắng chung. Mỹ rõ ràng đang ngả dần sang thế yếu, bị động, ta càng phải đẩy mạnh ngoại giao để hỗ trợ. Đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phương thức đấu tranh để giành lấy toàn thắng.
Rồi đúng như ý muốn của Bác, khi ra về, xe rẽ tới một chỗ sát bên đê không xa đầu cầu Long Biên để Bác lên coi tình hình sông nước. Đồng chí Kỳ luôn đi sát để đỡ Bác leo lên đê. Ông cứ cuống lên, hết đỡ sau lưng lại như xốc nách, rồi chỉ còn thiếu cõng Bác lên lưng. Nhưng Bác luôn luôn gạt lại và cố gắng một mình leo lên đê từng bước một. Mưa đã tạnh, nhưng gió vẫn thổi dào dạt khá mạnh. Ông Kỳ lo thắt ruột, vẫn bám sát, hai tay vẫn luôn để hờ sau lưng Bác.
Bác đã lên tới mặt đê. Bác đứng đó, hai bàn tay úp lên nhau đặt trên đốc chiếc can cắm thẳng trước mặt. Bác lặng ngắm nhìn dòng sông lũ đỏ nặng phù sa đang cuồn cuộn chảy xiết. Ngập lụt mênh mang như biển. Bờ bên kia xa tít chỉ còn là những vệt cây xanh úa kéo dài mờ mờ sau khói sóng. Gió kéo dài hun hút. Bác vẫn đứng đó, lúc trông dân bãi chạy lụt nhếch nhác trên đê, lúc ngước nhìn lên bầu trời vẫn đầy mây xám, lúc lại đăm đăm trông ra dòng sông lũ như vẫn đang như điên cuồng phô diễn tất cả sức mạnh tàn bạo, hung dữ của mình. Đôi mắt Bác vốn đã rất sáng, lúc này càng như sáng ngời lên với những suy tư đang tràn ngập và cả bao niềm thương đau vò xé. Tuy nhiên trong đôi mắt sáng láng đến kỳ lạ ấy như đang tràn ngập cả sức mạnh của tinh thần sáng suốt cùng lòng quả cảm vô song… Đồng chí Kỳ và các cán bộ đi theo chăm chú ngắm nhìn Bác, bỗng như cùng có cảm tưởng Bác không phải chỉ đang đau lòng trước cảnh lụt lội lầm than cụ thể ở nơi đây, mà còn như đang đầy tâm trạng lặng nhìn cả đất nước, cả giang sơn này đang còn phải chịu đựng biết bao gian nan để rồi mới có thể đi tới ngày toàn thắng.
Rồi Bác lại chậm rãi bước đi, không chịu cho ai dìu đỡ. Tự mình xắn quần, với chiếc can, Bác đi dọc trên bề mặt đê lầy lội để tới thăm một số gia đình chạy lụt. Bác luôn luôn dừng trước những túp lều làm tạm rách rưới, xiêu vẹo. Bác thăm hỏi và an ủi các cụ già, vỗ về các trẻ nhỏ. Bác đến gặp cả một số thanh niên, trong đó có cả bộ đội phục viên. Họ đang liên tục bơi tay vo, hoặc chống, đẩy những chiếc bè làm bằng nứa ghép, hoặc các phản gỗ tháo ra, hoặc chỉ là các thân chuối buộc lại. Với những chiếc bè "ứng dụng" ấy họ lao ra các xóm ngoài bãi đã chìm ngập để mò vớt những gì còn có thể vớt, từ chiếc nồi nhôm méo mó cho tới những chiếc bu gà, dù gà đã chết cả trong bu vì không kịp chạy. Hầu hết mình trần, đầu óc rũ ruợi nước mưa, nước sông, mệt lử lả, họ từ các bè trở lại lên đê. Bác chủ động tới gặp họ hỏi thăm và động viên. Hết sức bất ngờ và sửng sốt, họ chỉ còn biết gần như khóc lên vì qua xúc động “Ôi, cha già!”. Tuy nhiên, gió lại như mạnh lên, mưa cũng lại lay bay vài hạt. Ông Kỳ và những người đi theo Bác cùng vội xin Bác quay trở về. Biết là không thể cưỡng lại mãi ý kiến của những người bảo vệ và phục vụ mình, Bác lại chóng can tự mình trở xuống chân đê.
Từ lúc lên xe, Bác gần như hoàn toàn im lặng. Chỉ có một lần, Bác quay lại khẽ hỏi đồng chí Kỳ, mà có lẽ như muốn tự hỏi chính mình: "Bao giờ thì ta có thể chống lại được lũ lụt? Bao giờ có thể làm cho nhân dân ta hết khổ?".
Buổi chiều hôm đó, trên nhà sàn, Bác vẫn làm việc như thường lệ, nhưng đồng chí Kỳ thấy sắc thái Bác có vẻ kém đi, vẻ mệt nhọc cũng rõ hơn và như ẩn dấu cả một nỗi đau buồn nào đó trong ánh mắt. Phải chăng quang cảnh lụt lội ngoài sông, bãi vẫn còn ám ảnh Bác mãi chưa nguôi và rất có thể cả những cơn gió lạnh tệ hại kia ít ra cũng đã có thể làm Bác khó chịu.
Rồi bỗng, đang ngồi ở nhà dưới, ông Kỳ thấy có tiếng ho. Gần như giật mình, ông chăm chú nghe, Ông đã nghe ra ngay đó là tiếng ho của Bác. Lại nghe mấy tiếng ho tiếp. Rồi cứ thế chốc chốc lại thấy tiếng ho liền, mà ho khá mệt. Không thể kiên trì được nữa, đồng chí Kỳ vội chạy lên nhà sàn. Bác nhìn ra, khẽ hỏi:
- Chú lên làm gì đấy?
- Thưa Bác… Thưa Bác…
Miệng đáp chưa hết câu, ông Kỳ đã bước vội vào phòng, lấy một cốc nước ấm đưa tới mời Bác chiêu cho dịu họng và hỏi Bác liệu cần thuốc không để gọi bác sĩ… Bác cảm ơn và bảo Bác chỉ ho qua loa, khỏi phiền anh em. Và Bác giục đồng chí Kỳ xuống nhà.
Vâng lời, ông Kỳ trở xuống. Nhưng từ lúc đó cho tới gần hết buổi chiều, ông không sao ngồi yên được nữa, Bác vẫn chốc chốc lại khúc khắc ho, thậm chí có lúc Bác ho khá dài. Với sự nhạy cảm của mình, không thể chờ xin ý kiến Bác nữa, ông Kỳ gọi điện ngay cho bác sĩ Nhữ Thế Bảo (Chủ nhiệm khoa Tim mạch Viện 108 và đang là Tổ trưởng Tổ Y tế đặc trách trông nom sức khoẻ cho Bác).
Chỉ khoảng gần một giờ sau, bác sĩ Nhữ Thế Bảo cùng bác sĩ Lê Ngọc Mẫn(1) đã đạp xe hộc tốc tới. Cả hai ông Bảo và Mẫn chỉ kịp ném xe vào gốc cây, chạy bổ lên nhà sàn và thực hiện ngay mọi thăm khám hết sức tỉ mỉ. Cuối cùng cả hai bác sĩ đều kết luận: Không hoặc chưa có triệu chứng gì khác lạ, trước mắt chỉ thấy Bác bị viêm phế quản dẫn đến ho do bị cảm lạnh. Ông Kỳ thầm "Nam mô A Di Đà phật", cầu mong mọi sự đúng là nhẹ nhàng như thế.
Sau khi đưa thuốc và tận mắt thấy Bác uống xong, hai bác sĩ mới xin phép Bác ra về. Trời bắt đầu tối.
Khoảng 21 giờ, thấy trên sàn nhà vẫn còn sáng đèn, dù các bác sĩ đã yêu cầu Bác cần ngủ sớm, ông Kỳ lại leo nhanh hai bậc thang một lên nhà. Quả nhiên Bác vẫn thức, không những thế lại đang ngồi trước bàn làm việc như thường lệ tuy vẫn khúc khắc ho. Ông Kỳ lại đem một cốc nước nóng tới đưa cho Bác và bỗng nhiên nhìn thấy gương mặt Bác thoáng như có vẻ đang bừng bừng. Ông Kỳ không kịp xin phép, đặt nhanh bàn tay mình lên bàn tay Bác. Và giật mình, ông Kỳ muốn bật thốt lên: Ôi, Bác sốt rồi! Thật vậy, bàn tay Bác khá nóng. Ông Kỳ vội xin phép Bác cho được tạm đo nhiệt độ bằng chiếc máy đo cá nhân vẫn luôn luôn để sẵn trên nhà. Chỉ mấy phút sau, gỡ bao quấn tay Bác ra, nhìn lại đồng hồ đo lần nữa cho khỏi nhầm: Chưa phải là cao lắm, nhưng đúng là Bác đang sốt, dù là sốt nhẹ. Lần này thì ông Kỳ không giám nhân nhượng nữa. Ông nhất quyết đề nghị Bác phải uống tiếp thuốc của bác sĩ Bảo để lại, rồi đi nằm nghỉ. Nhìn ông Kỳ, Bác cười, nhưng có lẽ cũng không muốn làm cho người thư ký hết mức tin yêu này quá lo lắng, Bác thu tài liệu lại, uống thuốc, rồi thong thả sang phòng ngủ của mình. Bấy giờ ông Kỳ mới trở xuống nhà, lặng lẽ quay máy lại gọi bác sĩ Bảo.
Sáng hôm sau, không phải chỉ có bác sĩ Bảo mà cả Hội đồng bác sĩ y khoa chuyên lo sức khỏe cho Trung ương do chính bác sĩ Bảo phụ trách đã có mặt ở nhà sàn từ khá sớm với đầy đủ thuốc men và các máy móc y tế cần thiết. Đêm qua, Bác đã gần như ho suốt. Rồi cả đồng chí Trường Chinh, đồng chí Sao đỏ (Nguyễn Lương Bằng) cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đến. Bác không khỏi cảm động:
- Các chú đến sớm vậy? Mà sao đông thế? Bác chỉ sơ sơ thôi mà. Các chú chớ có quá bận tâm.
Các bác sĩ xin được thăm khám cho Bác ngay. Tất cả mọi người đều im lặng chăm chú theo dõi mọi hoạt động của Hội đồng bác sĩ. Không khí trong căn phòng ngủ của Bác trên nhà sàn tuy chưa phải quá nghiêm trọng nhưng cũng đã có phần chẳng bình thường. Người muốn giải toả không khí ấy không phải ai khác lại chính là Bác. Tranh thủ giữa các việc làm điện tim, đo mạch, kiểm tra huyết áp… Bác thường mỉm cười và hỏi chuyện mọi người, rất ân cần.
Sau một hồi khám và xét nghiệm, Hội đồng bác sĩ y khoa đã đi tới kết luận ban đầu: Bác bị viêm phế quản trên nền viêm phế quản mãn tính nên sốt cao và bạch cầu tăng.Hội đồng quyết định dùng thuốc kháng sinh Tatopen (giống như Ampicilin) của Pháp để điều trị cho Bác.
Tất cả mọi người đều như thầm thở, trút ra được một chút lo lắng. Gương mặt các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp bớt căng thẳng. Các đồng chí đều bắt tay các bác sĩ rất chặt - những cái bắt tay gửi gắm rất sâu nặng. Tất cả mọi cán bộ, nhân viên khác cùng có mặt trong thời khắc căng thẳng vừa qua, trước khi ra về đều chúc Bác mau bình phục cho con cháu được nhờ, cho Tổ quốc được mau thống nhất, cho đất nước sớm được yên bình, và hết lời đề nghị các bác sĩ gắng trông nom Bác…
Tuy nhiên, mấy ngày sau đó huyết áp Bác vẫn chưa được thật ổn định, khi lên khi xuống thất thường. Bộ Chính trị đã lại phải hội ý. Một quyết định đã được đưa ra theo đề nghị của các bác sĩ: Mời Bác xuống ở căn nhà mới xây năm 1967 khi Bác đi Trung Quốc. Ngôi nhà nhỏ phía sau nhà sàn rất kiên cố, có thể chống bom. Nếu Bác chịu xuống ở căn nhà mới xây mang ký hiệu H67 ấy Bác sẽ không phải leo cầu thang vất vả và khó khăn nữa. Bác trầm ngâm một chúi rồi đáp: Các đồng chí Bộ Chính trị đã có ý kiến, Bác chấp hành. Thế là lần đầu tiên Bác đã phải xa ngôi nhà thân yêu mà Bác đã ở đó gần tròn 15 năm với niềm vui và hạnh phúc là được cống hiến và hy sinh cả đời mình cho cách mạng, cho nhân dân, cho Tổ quốc. Khi các đồng chí Bộ Chính trị cùng đồng chí Kỳ đỡ Bác xuống hết cầu thang, Bác không khỏi ngoái nhìn lại ngôi nhà sàn với cặp mắt thật xa vắng.
Cũng vẫn thật đặc biệt: Xuống nhà H67, không chịu hoàn toàn nằm nghỉ, Bác vẫn làm việc. Tất nhiên Bác nói: "Nhẹ nhàng thôi mà". Bác còn cười, nói thêm: "Bác nằm suốt ngày sẽ càng ốm to!".
- Ngày 18 tháng 8 năm 1969, Bác đã ký Sắc lệnh số 123-LTC bổ nhiệm đồng chí Đỗ Mười giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Văn phòng Phủ Thủ tướng.
- Ngày 21 tháng 8 năm 1969 Người đã ký 2 sắc lệnh: Lệnh số 124-LCT thưởng hai Huân chương Chiến công hạng Nhì cho hai chuyên gia Liên Xô: Pa-ven Nô-xô-ca-ri-ốp và Bô-rít Xu-mi-ri-côp đã có công giúp nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ. Lệnh số 125-LTC công bố tha cho những phạm nhân cải tạo tốt và giảm hạn tù cho những phạm nhân thật thà và cố gắng sửa chữa khuyết điểm trong thời kỳ ở trại.
- Ngày 22 tháng 8 năm 1969, Bác ký Điện chào mừng gửi các đại biểu dự "Cuộc gặp gỡ thế giới của Thanh niên và sinh viên vì sự thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam", họp ở Hen-xin-ki (Phần Lan).
- Ngày 23 tháng 8 năm 1969, Bác Hồ thưởng huy hiệu của Người cho 7 thiếu niên dũng cảm, thật thà nhặt được của rơi đem trả người đánh mất, dũng cảm lao xuống sông (trong đó có cháu bé nhất là 7 tuổi) cứu người bị nạn.
- Cũng trong ngày 23 tháng 8 năm 1969, Bác trao huy hiệu của Người cho Bộ Quốc phòng để thưởng cho các phi công ta bắn rơi máy bay Mỹ và cứu dân khỏi nước lụt.
Ai ai cũng hiểu tất cả những việc đó không phải chỉ là sự sáng suốt và sức làm việc phi thường của Bác, mà trước hết là tinh thần, ý chí, cùng tấm lòng bao la vô cùng của Bác.
Nhưng rồi sự lo xa của tập thể lãnh đạo đã không phải là quá đáng bởi sau đó bệnh của Bác lại bột phát. Tối 24 tháng 8 năm 1969, Bác đang nằm nghỉ, khoảng 20 giờ 30, ông Kỳ vẫn còn đang ngồi ở ngoài nhà cho mát bỗng nghe Bác thở khá mạnh và gấp. Gần như giật bắn người, ông lao vào nhà. Trên giường, Bác đang nằm tay ôm lấy ngực day day, xoa xoa. Cố nén mọi tiếng kêu sợ hãi, ông Kỳ vồ lấy chiếc máy nói thường trực lại gọi gấp bác sĩ Nhữ Thế Bảo.
Rất nhanh, chỉ một lúc sau không phải chỉ có ông Bảo mà cả Hội đồng y khoa đã có mặt đầy đủ cùng máy… Cũng liền ngay sau đó là các đồng chí: Nguyễn Lương Bằng, Lê Văn Lương , Võ Nguyên Giáp, Song Hào…
Các bác sĩ lại ai vào việc ấy. Người khám sơ bộ lâm sàng cho Bác, người bắt đầu mở các máy y tế chuyên dụng… Không khí hết sức khẩn trương.
Một lúc sau, rời máy quay ra, bác sĩ Tổ trưởng Nhữ Thế Bảo cất tiếng nói chỉ vừa đủ nghe, nhưng thật sự quan trọng:
- Thưa các đồng chí, Bác bị nhồi máu cơ tim thành sau.
Ông Kỳ và tất cả các đồng chí lãnh đạo thoắt như choáng, lặng đi. Tuy nhiên bác sĩ Bảo đã cố gắng nói tiếp:
- Báo cáo các đồng chí, nhưng dẫu sao cũng còn có hy vọng cấp cứu. Chúng tôi sẽ cố hết sức mình.
Một hồi sau, đúng như lời bác sĩ Nhữ Thế Bảo, Bác đã dần dần hồi tỉnh, rồi mở mắt ra. Như để đáp lại những lời thăm hỏi của mọi người, Bác cố gắng giữ vẻ bình thường, nhưng gương mặt xanh xao và hơi thở còn khá mệt nhọc.
…Một chiếc xe com măng ca phóng khá nhanh trên con đường Trần Hưng Đạo, hướng tới Viện Quân y 108 ở bên bờ sông Hồng. Trên xe là đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài và đồng chí Cục trưởng Cục Bảo vệ Trần Kinh Chi. Cả hai cùng ngồi im lặng, nhưng đều đang nghĩ tới tất cả mọi việc đã và đang triển khai rất khẩn trương do tình hình sức khoẻ của Bác. Tối 24 vừa qua là một tối đáng gọi là lo sợ cho tất cả mọi người. Dù Bác đã qua khỏi đêm nguy kịch nhưng mọi bất trắc vẫn còn nguyên. Cho nên việc thứ nhất là ngay trong đêm, Trung ương Đảng ta đã phải điện gấp sang Bắc Kinh đề nghị cử thêm một số chuyên gia y tế giỏi sang ngay, tham gia vào việc chữa bệnh cho Bác. Việc thứ hai là Văn phòng Phủ Thủ tướng cũng được lệnh điện gấp cho ông Vương Quốc Mỹ (Bộ Kiến trúc) đang công tác ở Liên Xô đề nghị Bạn cử ngay các chuyên gia y tế và dụng cụ cần thiết phục vụ cho nhiệm vụ hiữ gìn thi hài Bác khi qua đời sang ta. Một việc lớn nữa là được sự đồng ý của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đã quyết định thành lập một ban chỉ đạo (của Quân uỷ) để chỉ đạo kịp thời và cụ thể mọi công tác chăm sóc sức khoẻ Bác cũng như việc tổ chức lễ tang và lưu giữ thi hài Bác. Ban Chỉ đạo gồm: Đồng chí Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng làm Trưởng ban; đồng chí Phùng Thế Tài làm Phó ban; đồng chíTrần Kinh Chi, Uỷ viên hường trực, cùng hai uỷ viên nữa là bác sĩ Vũ Văn Cẩn, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Cục trưởng Quân y và đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ban chỉ đạo đã họp. Mọi người cùng lo buồn, cùng chung một cảm tưởng: Thời điểm nghiệt ngã nhất xem ra đang đến gần. Ban Chỉ đạo đã quyết định: Việc trước tiên là phải kiểm tra lại toàn bộ mọi khâu công tác đã chuẩn bị cho "đại sự” nhất là hai cơ sở quan trọng 75A và 75B. Trước đây, ông Tài và cả ông Kinh Chi vẫn đều đặn lui tới đây đôn đốc, nhưng hôm nay thay mặt Ban Chỉ đạo, hai ông phải kiểm tra một lần nữa, để rồi các đồng chí: Nguyễn Lương Bằng, Lê Văn Lương sẽ lới kiểm tra lần chót.
Bỏ xe lại ở bãi trước khu nhà chính của Viện Quân y 108, hai ông cùng đi bộ vào và như mọi khi lại lấy dáng vẻ bình thường như tất cả mọi người đến khám bệnh hoặc thăm người ốm. Một số cán bộ quân đội nhận ra hai ông, giơ tay chào... Cũng lại như mọi lần, hai ông lại phải tách ra, mỗi người đimột ngả khác nhau. Lát sau hai người lặng lẽ đi sâu vào khu vực cuối bệnh viện nơi rất ít người qua lại. Tới khu vực này hai ông cùng nhanh chóng bước vào một ngôi nhà một tầng nằm hẻo lánh sát phía sau nhà tang lễ của bệnh viện. Ngôi nhà này vốn từ lâu là Khoa Giải phẫu bệnh lý. Nơi đây đã được Quân uỷ phê duyệt cải tạo thành công trình 75A.
Bữa nay hai ông lại tới đây, vừa bước vào phòng chờ - cũng là phòng tạm nghỉ của các bác sĩ đã thấy bác sĩ Nguyễn Gia Quyền với cái đầu hói khá đẹp cùng dáng người đậm với gương mặt trung hậu của bác sĩ Lê Điều. Ông Quyền là Tổ trưởng ở đây, nhưng vẫn là Chủ nhiệm Khoa Giải phẫu bệnh lý của Viện 108 nên luôn luôn bận. Ông Điều có nhiệm vụ quản lý toàn bộ vật tư trong Tổ, ngoài ra còn thường xuyên hướng dẫn, truyền đạt lại các kỹ thuật và kinh nghiệm bảo quản thi hài đã học được ở Liên Xô cho anh em mới. Học ngay ở 75A và ứng dụng luôn trong các thực nghiệm ở Viện Quân y 108, do đó trình độ của anh em tiến bộ rõ rệt. Hôm nay cả hai ông Quyền và Điều đang làm việc với các bác sỹ, y tá mới được bổ sung vào Tổ Y tế đặc biệt: Bác sĩ Nguyễn Văn Châu, bác sĩ Sái Thế, y sĩ Nguyễn Trung Hát và y công Phạm Ngọc Ảm. Thấy hai ông Tài và Kinh Chi tới, mọi người đều giật mình. Và gần như có chung cảm tưởng có lẽ nỗi bất hạnh rất lớn của dân tộc đã tới!
- Báo cáo các anh, chúng tôi sốt ruột quá đang tự kiểm tra toàn bộ thêm lần nữa, xem máy móc… để ngộ nhỡ… có gì… Bác sĩ Nguyễn Gia Quyền báo cáo.
Ông Tài tỏ vẻ hài lòng:
- Vậy ổn cả chứ, bác sĩ?
- Báo cáo các anh, hoàn toàn ổn định. Các thông số kỹ thuật vẫn rất tốt. Mời các anh vào phòng kỹ thuật chính. Chúng tôi cho chạy lại các máy lần nữa để các anh trực tiếp kiểm tra lại.
Ông Tài gật đầu, cùng ông Kinh Chi thay áo quần y tế, giày dép, rồi bước vào căn phòng đặc biệt. Đây là nơi đầu tiên sẽ đưa thi hài Bác tới làm các động tác y tế ban đầu nhưng rất quan trọng trước khi chuyển Bác ra Ba Đình làm lễ viếng và Lễ Quốc tang.
Một căn phòng rất sáng. Máy móc được mở lại: Nhiệt độ đúng là 16 độ C, chênh lệch co dãn chỉ trên hoặc dưới 0,2 độ C và độ ẩm là 75%. Không khí đã được vô trùng tuyệt đối. Tất cả đúng với yêu cầu kỹ thuật. Cẩn thận, ông Tài yêu cầu anh em xoá đi làm lại lần nữa. Lần thứ hai vẫn y như thế, ông Tài và ông Kinh Chi hết sức hài lòng, chỉ còn biết quay lại bắt tay thật chặt hai ông Quyền và Điều cùng anh em bác sĩ, y sĩ. Là người “ngoại đạo”, nhưng ông Tài và cả ông Kinh chi đã được các nhà khoa học và các bác sĩ cho biết: Trong những công trình như thế này, môi trường với nhiệt độ, độ ẩm và quy trình thông gió là quan trọng hàng đầu. Tất nhiên thuốc cũng rất quan trọng mà chủ yếu là dung dịch đặc biệt để lưu giữ thi hài. Dung dịch này chỉ Liên Xô mới có, đó một bí mật quốc gia của Bạn. (Tất nhiên trong y học cũng có nói, có viết, thậm chí có dạy qua về dung dịch này, nhưng chưa ở đâu đã có thực tế qua thực hành như Liên Xô, do đó trừ Liên Xô trên thế giới này chưa ai sản xuất được). Vậy mà, mặc dù bước đầu mới học được ở Bạn ít nhiều và khi về được bạn cho một số máy móc tối thiểu, với trí thông minh và truyền thống linh hoạt, sáng tạo, các bác sĩ ta cũng đã tạo nên được một căn phòng đặc biệt đúng với yêu cầu cao của khoa học và đã mấy lần thực nghiệm đều cho kết quả tốt.
Dù đã có tiếng là một võ tướng rất cứng rắn, nhưng hôm nay ông Tài không thể không cảm động nhớ lại tất cả những vất vả, khó khăn ban đầu mà các cán bộ, chiến sỹ công binh phải trải qua. Ấy là lúc một kỹ sư thiết kế các công trình quốc phòng của Binh Chủng Công binh là đồng chí Nguyễn Trọng Quyển đang công tác ở Bắc Kạn nhận được điện gọi, đã tức tốc trở về ngay. Hồi đó làm gì có ô tô, xe máy nhiều như bây giờ. Ông Quyển phải guồng chiếc xe đạp cà tàng suốt 200 cây số về Hà Nội. Và ngay sau đó một tổ cán bộ đã hình thành, gồm: Nguyễn Trọng Quyển - Tổ trưởng, cùng các thành viên: Bùi Danh Chiêu - một trong 3 kỹ sư hiếm hoi về thông gió của Việt Nam thời đó và các kỹ sư Nguyễn Lam Sinh, Phạm Hoàng Vân, Hoàng Quang Bá. Tổ vừa thành lập xong đã bắt tay ngay vào việc theo phương châm vừa thiết kế vừa xây dựng. Lực lượng thi công là Tiểu đoàn 2 Công binh do đồng chí Trần Sĩ Yêm chỉ huy - cũng là một đơn vị giỏi.
Tổ kỹ thuật cùng anh em Tiểu đoàn 2 đã mau chóng nhận thức được trách nhiệm rất quan trọng sẽ phải hoàn thành, bởi đây là một công trình đặc biệt và rất phức tạp. Về chuyên môn đã khó, nay còn khó khăn do điều kiện khách quan mang lại: Qua mấy năm chiến tranh phá hoại, một số cơ sở điện, nước đã bị địch đánh phá nặng, không thể bảo đảm 24/24giờ cho anh em thi công. Các cơ quan Trung ương lại sơ tán nhiều, việc liên hệ về giấy tờ, vật chất… rất vất vả, khó khăn. Địa điểm thi công lại là một khu vực nhỏ ở cuối bệnh viện khá chật hẹp, phải chia ca, kíp và phải làm việc cả ngày đêm... Nhưng tất cả các sĩ quan và chiến sĩ Tiểu đoàn 2 Công binh đã lao động hết mình, làm tới đâu được nghiệm thu tới đó. Tóm lại khâu xây dựng là rất tốt. Tuy nhiên khi đi vào lắp đặt máy móc thiết bị rồi vận hành thử mới phát sinh ra nhiều khó khăn khác, trong đó có một khó khăn vào loại cam go nhất, quan trọng nhất, tưởng như không sao khắc phục được: Đó là chiếc máy điều hoà nhiệt độ to đùng của Liên Xô tặng đoàn ông Gia Quyền mang từ Mát-xcơ-va về nay lắp vào, điều chỉnh thế nào nó cũng vẫn chỉ là 37 độ C. Lạ thế! Không những vậy, nó còn kêu rất to và rung khá mạnh. Lo quá. Sửa, chỉnh sao cũng không được. Hôm ấy ông Tài cũng có mặt ở đây. Nghĩ đã nát óc mà vẫn chưa tìm ra cách khắc phục, ông không khỏi thầm lo. Một người trong đám đông anh em công binh bỗng bật lên đề nghị: Lên An toàn khu của Trung ương mượn một bộ điều hoà nhiệt độ của Nhật - đem về đây xem sao, rồi tính sau…. Ông Tài chấp nhận ngay. Và chỉ ngay đêm hôm đó, máy đã được bật lên trong sự hồi hộp lớn của mọi người. Rồi tất cả cùng oà lên, nhảy cả lên vì mừng, vì sung sướng… Mọi thông số đều đúng với yêu cầu, dù thử đi thử lại tới mấy lần. Máy lại nhẹ, chạy rất êm và không hề rung…
Tuy nhiên, vẫn chưa phải đã hết sự cố. Khắc phục được chuyện máy điều hoà nhiệt độ xong thì ở buồng trung tâm nơi sẽ đặt thi hài Bác lại xuất hiện trục trặc khác. Sau khi máy điều hoà ngưng làm việc, anh em cán bộ, chiến sĩ nhận ra có hiện tượng đọng sương trên trần nhà. Sương ẩm dễ tạo điều kiện cho vi khuẩn, vi nấm phát triển, mà phòng này lại đòi hỏi phải được vô trùng tuyệt đối. Lại “đau đầu” đây. Các chiến sĩ công binh đã dùng sơn chống khô (Bê-ki-lit) phết lên và dùng cả giẻ để thấm khô, nhưng cũng không ăn thua, hiện tượng đọng sương vẫn xảy ra. Tuy nhiên, người Việt Nam ta vốn thông minh, linh hoạt, nên anh em đã nghĩ ra được một kế khác: Dùng gỗ lát toàn bộ trần nhà, kết hợp với tăng cường quạt gió để thông hơi. Hì hục làm một ngày. Và lại thử để quan sát. Lại hồi hộp theo dõi gần suốt buổi. Thế rồi anh em ôm lấy nhau nhảy múa. Hiện tượng đọng sương đã hoàn toàn biến mất.
Thế đấy, hôm nay lại tới kiểm tra, ông Tài và cả ông Kinh Chi cùng nghe anh em vui vẻ nhắc tới câu chuyện thót tim về chiếc máy điều hoà kêu to, rung mạnh và hiện tượng đọng sương bữa nọ. Vui thì vui thật, nhưng hôm nay biết Bác vẫn đang rất mệt, hai ông đều không có thể cười được nữa. Trước khi quay về, ông Tài nhìn cả Tổ Y tế đặc biệt hỏi:
- Sao mắt mũi như sưng cả lên thế kia?
Bác sĩ Gia Quyền đáp:
- Báo cáo, suốt đêm qua anh em đều xin trực hết vì… có báo động.
Ông Tài không dám hé lộ trước mặt anh em là riêng ông đã được cho biết qua điện thoại là trong đêm qua Bác đã có lúc phải thở bằng oxy. Ông động viên anh em:
- Thôi được, nhưng hôm nay nên phân công nhau trực và ngủ bù đi!Công việc… chưa hết đâu ?
Mọi người cùng gật đầu cảm ơn thủ trưởng.
Và ngay chiều hôm ấy, hai ông Tài và Kinh Chi đi tiếp lên Hội trường Ba Đình để kiểm tra cơ sở 75B.
Cơ sở 75B quàn thi hài Bác trong những ngày lễ lang, do đó nhỏ bé hơn 75A nhiều, chỉ có hòm kính đặt thi hài Bác trên, còn máy móc tất cả để dưới gầm. Tuy vậy, ở đây lại hết sức khó khăn về mặt kỹ thuật. Trước hết, Hội trường Ba Đình ở ngay sát đường, người qua lại rất nhiều, nên mặt bằng thi công đã chật chội lại phải làm toàn vào ban đêm để giữ bí mật, nên không khỏi vất vả, thêm nữa vì Hội trường khi làm lễ tang sẽ có rất đông người ra vào, lại còn quay phim chụp ảnhnên nhiệt độ và độ ẩm ở đây sẽ phức tạp, khó ổn định hơn 75A.Nhưng trong nhiều khó khăn, thì khó khăn lớn nhất và chủ yếu ở đây lại là chiếc hòm kính để thi hài Bác. Bàn đã làm được rất tốt, rất đẹp do xưởng mộc ở An Dương làm, khung kính cũng do Xí nghiệp 49 Công binh làm bằng thép mạ kền sáng loáng. Bàn, khung đã có đủ nhưng chưa có kính? Chưa tìm ra được những tấm kính khổ lớn, mà phải là loại kính không vỡ, dày, trong suốt, không có gợn sóng, lại còn phải khắc phục được hiện tương đọng hơi nước ngưng tụ ở mặt kính khi chạy máy điều hoà nhiệt độ. Các đồng chí ở trên đã gửi yêu cầu sang Liên Xô đề nghị giúp, đồng thời yêu cầu ông Vương Quốc Mỹ đang ở bên đó cố xin thêm được vật tư, nhất là kính đặc biệt. Nhưng cho tới giờ vẫn hoàn toàn bặt tin. Vậy biết làm thế nào bây giờ? Nhưng may làm sao, sau một thời gian tìm kiếm khắp nơi không đâu có, đã gần như tuyệt vọng thì có ông Thiện, Vụ phó Vụ Quản trị Phủ Thủ tướng cho biết: Ta đã từng nhập kính như vậy để phục vụ cho một số công trình nào đó, có thể chính hội trường này, hình như chưa dùng hết. Thế là được lệnh của ông Khanh, Phó Văn phòng Thủ tướng, anh em công binh nhào ngay xuống hầm hội trưởng tìm kiếm. Một lúc sau bỗng nghe reo lên: "Đây rồi. Có lẽ đây rồi!”. Sau đó mấy anh em lễ mễ khiêng từ một xó tối cuối hầm ra một kiện kính ngoại rất lớn còn nguyên xi chưa dỡ ra, bụi bám đầy.Mở ra, mừng không sao tả được, ông Trọng Quyển phụ trách thi công phân công ngay: Kỹ sư Lam Sinh vẽ thiết kế và kỹ sư Ngô Vĩnh phụ trách gia công. Thế là hòm kính đã hoàn thành. Nhưng rồi khó khăn lại xảy ra, ở đây cũng có hiện tượng đọng sương trên hòm kính. Tuy nhiên đã có kinh nghiệm ở 75A, việc giải quyết đọng sương ở đây cũng sớm được khắc phục. Hai cơ sở đặc biệt ấy đều đã được hoàn thành tốt và trong thời gian ngắn. Ông Tài thay mặt Bộ Tổng Tham mưu khen ngợi anh em Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 259 Công binh luôn cần cù, sáng tạo và cả ý thức chính trị tốt của "những người lính thợ cách mạng".
Buổi chiều hôm đó, đi kiểm tra lại lần cuối, hai ông Tài và Kinh Chi tới Hội trường Ba Đình, lên ngay sân khấu xem lại tỉ mỉ hòm kính, hai ông đã thấy quả là quá đẹp và thông số kỹ thuật rất chuẩn. Sau khi xem xét lại hòm kính rồi xuống gầm sân khấu xem lại cả hệ thống máy móc lần cuối, hai ông mới ra về.
Trên xe, hai ông đã có thể cùng nhau trao đổi ý kiến về những việc khác và cả Lễ Quốc tang. Việt Nam ta chưa có kinh nghiệm tổ chức Lễ Quốc tang lớn bao giờ, nhất là Lễ Quốc tang lãnh tụ tối cao, nên không khỏi lo lắng. Quốc tang, tất nhiên nhiều Bộ, nhiều cơ quan, nhiều đoàn thể sẽ cùng gánh vác. Về phía Bộ Quốc phòng mà Bộ Tổng Tham mưu là đại diện chủ yếu đã được Bộ Chính trị phân công công việc: Bảo đảm an ninh tuyệt đối trong hội trường, làm thật tốt nhiệm vụ tiêu binh danh dự đúng với mọi quy cách quốc gia và quốc tế trong Quốc tang lãnh tụ và nguyên thủ quốc gia. Nhưng công việc quan trọng và khó khăn nhất là chuyển thi hài Bác từ Phủ Chủ tịch tới 75A để các bác sĩ, chuyên gia làm các công việc y tế, sau đó đưa tiếp thi hài Bác từ 75A tới Hội trường Ba Đình để làm Lễ Quốc tang. Tiếp đó lại đón Bác trở về 75A. Ông Tài lại nghĩ ngay tới Lữ đoàn 144 Bộ Tổng Tham mưu, Lữ đoàn đã từng gánh vác biết bao việc lớn nhỏ của Bộ Quốc phòng và Nhà nước. Ông sẽ lệnh cho Lữ đoàn trưởng Vũ Ngạch phải tổ chức ngay các bộ phận chuyên trách và lên các kế hoạch tập luyện ngày, đêm, may ra mới kịp với tình hình và nhiệm vụ.Mới tạm nghĩ tới đó ông Tài đã thấy quá nhiều việc mà việc nào cũng phải mười phần nỗ lực cả.
Phố phường Hà Nội về chiều hết giờ làm việc, đã trở nên nhộn nhịp, vui hơn so với thời sơ tán (Mỹ đã phải chịu ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra) Nhưng đã mấy ai biết Hà Nội vẫn còn có những con người, những đơn vị, những tổ chức đang rất âm thầm, kể cả vô cùng đau đớn, bí mật, ráo riết, căng thẳng chuẩn bị cho những ngày buồn thương chưa từng có của dân tộc, đất nước, mà sự kiện này hầu như chắc chắn sẽ khó lòng tránh khỏi.
Nếu như tạm coi ngày 12 tháng 5 năm 1969 Bác lên Hồ Tây gặp một số cán bộ của phái đoàn ngoại giao rồi thăm dân ngoài đê sông Hồng bị nước lũ, trở về, Bác ho và bắt đầu ốm, là cái mốc đánh dấu sự khởi đầu cho những ngày tháng cuối cùng của Bác, thì tới ngày 24 tháng 8 năm 1969 bệnh của Bác đã trở lên phức tạp hơn, vì thế có thể coi ngày 24 là cái mốc thứ hai chăng?
Nếu vậy, ngày 28 tháng 8 năm 1969 có thể coi như cái mốc thứ 3. Bệnh của Bác lại phát triển xấu hơn. Trên điện tâm đồ xuất hiện diễn biến rối loạn nhịp tim báo hiệu khó tránh khỏi bị suy tim. Những cơn đau thắt ngực lại tăng lên. Các bác sĩ trong Hội đồng y tế luôn luôn túc trực xung quanh Bác để điều trị. Chiều hôm đó còn có thêm lực lượng y tế tăng cường. Đó là các chuyên gia Trung Quốc gồm: Bác sĩ Trương Hiếu người Quảng Đông chuyên về tim mạch, bác sĩ Hoàng Uyên người Bắc Kinh cũng chuyên về tim mạch, bác sĩ Tôn Chấn Hoàn chuyên châm cứu, cùng 2 nữ y tá.
Buổi chiều ngày 28, Bác như thiếp đi, nhưng không phải là ngủ say. Các đồng chí Bộ Chính trị, Trung ương và các bác sĩ cùng nhau lay gọi và lại tiêm thuốc cho Bác. Cũng may, chỉ một lúc sau Bác đã tỉnh lại. Mọi người vẫn còn nhớ mãi hình ảnh: Khi Bác từ từ mở mắt ra, nhìn thấy đông đảo các đồng chí trong Bộ Chính trị, Trung ương, Bác khẽ mỉm cười. " Ôi nụ cười đã hầu như héo đi trên gương mặt xanh xao của Bác nom mới xúc động làm sao!”. Ông Kỳ cùng những người phục vụ thường xuyên bên giường bệnh của Bác đều rớt nước mắt và thầm nhủ: Phải chăng đây là nụ cười lần cuối của Bác?.
Hôm ấy trời Hà Nội lại nắng khá gay gắt, không khí khá oi ả dù đã sang thu. Nước lũ sông Hồng vẫn hầm hập tràn ngập, chưa chịu lui. Nguy cơ vỡ đê vẫn còn lơ lửng trên đầu mọi người. Cũng trong buổi chiều hôm ấy, theo điện khẩn của ta, đoàn chuyên gia Liên Xô về bảo quản lưu giữ thi hài đã kịp thời tới Hà Nội. Đoàn gồm 5 người, đứng đầu là Viện sĩ thông tấn X.X Đê-lốp - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm y học Liên Xô, Viện trưởng Viện thi hài Lênin dẫn đầu. Bước xuống sân bay, khôn mặt ông đã đầy vẻ lo lắng: "Thời tiết Việt Nam thế này, không hiểu có thể làm được việc gì đây?". Các ông nhìn xuống dòng sông lũ đỏ phù sa bầm bầm, mênh mông, kinh ngạc hỏi: "Đây là biển hay là con sông Hồng mà các nhà thơ Việt Nam vẫn từng ca ngợi là dòng sông mẹ hiền và tuyệt vời nhất của Việt Nam?...".
Qua ngày 29 tháng 8 năm 1969. Buổi sáng, tin từ Phủ Chủ tịch báo sang Bộ Chính trị: Bệnh tình Bác vẫn không có dấu hiệu thuyên giảm. Đồng chí Lê Duẩn cùng một số đồng chí trực tiếp làm việc với đoàn Viện sĩ Đê-lốp. Chiều hôm trước, đoàn chuyên gia này đã đi kiểm tra cả hai cơ sở ở 75A và 75B ngay sau khi đặt chân tới Hà Nội. Đoàn đã xem xét rất kỹ mọi máy móc, xem lại nhiệt độ, độ ẩm, việc thông gió và kết quả thực nghiệm. Viện sĩ Đê-lốp muốn tự mình được trực tiếp kiểm tra tất cả. Cuối cùng, ông đã thay mặt toàn đoàn thốt lên ngay tại chỗ với các bác sĩ Việt Nam: "Tốt! Tốt! Khí hậu Việt Nam khá là khắc nghiệt mà các đồng chí đã làm được thế này là giỏi lắm!". Bây giờ trước mặt các đồng chí lãnh đạo của Việt Nam, ông Viện sĩ vẫn nhắc nhở lời khen ấy và tin là Hà Nội đã có đủ khả năng để tiến hành công tác giữ gìn thi hài Bác Hồ trong giai đoạn đầu và lễ tang…
Đã phần nào an tâm, tuy nhiên Bộ Chính trị vẫn khẳng định một yêu cầu: Vạn nhất Bác có nằm xuống, tất cả mọi việc về khoa học và kỹ thuật vẫn nhờ đoàn Liên Xô trực tiếp giúp, các bác sĩ Việt Nam sẽ làm trợ thủ. Ông Đê-lốp thay mặt đoàn hứa sẽ làm hết sức mình với niềm tin và vinh dự lớn là được các đồng chí Việt Nam hết mực tin cậy.
Tuy nhiên, các vật tư thiết bị cần thiết khác cần bổ sung cho công việc đặc biệt này vẫn chưa đủ, kể cả kính đặc biệt cho hòm kính đặt thi hài cũng vẫn chưa có tin tức. Cũng may chúng ta đã không chịu bị động, nên đã có sáng kiến và chịu khó tìm tòi, cuối cùng đã có được hòm kính trên sân khấu Ba Đình.
Ngày 30 tháng 8 năm 1969. Bệnh tình Bác càng nặng thêm. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Trung ương,… đều lần lượt tới bên giường Bác. Nhưng Bác rất mệt. Rồi Bác lại lên cơn đau ngực, sau đó đi vào hôn mê… Tất cả đều bàng hoàng. Mọi người đã cuống lên. Nhưng các bác sĩ Việt Nam và Trung Quốc cùng yêu cầu mọi người bình tĩmh và ra khỏi phòng để các thầy thuốc kịp thời cấp cứu.
Một hồi sau, Bác lại từ từ mở mắt, ngước nhìn bốn xung quanh với vẻ mệt mỏi và có cả một chút gì đó tựa như sự bỡ ngỡ của một người đi vắng xa lâu lắm, nay mới trở lại… Tuy nhiên cũng vẫn kỳ lạ, tuyệt vời như lần trước đây, dù mệtnhưng Bác vẫn không hề quên gì hết. Khi thấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới, Bác khẽ hỏi ngay: "Chú chuẩn bị việc tổ chức Quốc khánh năm nay ra sao rồi?", và nhắc: "Nhớ nên bắn pháo hoa cho dân vui.”. Thủ tướng vô cùng xúc động, báo cáo là mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, xong xuôi. Bác lại hỏi lũ sông Hồng đã rút chưa? Cần phải lo cứu dân nếu đê vỡ… Thủ tướng không dám giấu Bác, báo cáo là nước lũ vẫn chưa rút hết.Nhưng Hội đồng Chính phủ cũng đã có nhiều cố gắng để giúp dân và đề phòng bất trắc. Rồi Thủ tướng mạnh dạn thưa sang ý khác: Chính phủ muốn mời Bác lên khu an toàn để Bác được tĩnh dưỡng và đề phòng lũ lụt. Bác lắng nghe. Nhưng rồi Bác lắc đầu, thong thả trả lời: "Không! Bác không muốn đi đâu cả. Bác không thể bỏ dân. Dân ở đâu Bác ở đó, dù lụt lội hơn nữa, dù Mỹ có ném bom Hà Nội trở lại… Các chú phải sẵn sàng cứu dân nếu đê vỡ”. Thủ tướng chỉ còn biết ứa nước mắt nhìn Bác và thầm kêu lên: "Bác ơi, đến cảnh ngộ này, Bác vẫn chỉ nghĩ đến dân…". Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng cạnh đó thì nghĩ đến ngay đến việc đêm nay ông Tài phải điều mấy chiếc thiết giáp lội nước tới sau nhà 67 để sẵn sàng ứng cứu bằng mọi giá nếu đê vỡ nước có thể tràn vào đây.
Cũng rất khuya đêm ấy, những công việc mà ông Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng nghĩ tới sau buổi đi kiểm tra cơ sở 75A và 75B về, nay đã được thực thi, và đêm nay - đêm 30 tháng 8 năm 1969 công việc ấy lại được tiếp tục. Rất sôi động nhưng cũng rất im lặng, kín đáo. Thật vậy, từ khi Bác mệt nặng đến nay, đêm đêm nếu ai có việc đi qua Hội trường Ba Đình và mấy đường như Trần Quang Khải dọc sông Hồng và Phan Đình Phùng từ bờ sông chạy ngược lên về phía Phủ Chủ tịch, đều thấy có các anh cảnh sát từ các bóng cây nhẹ nhàng xuất hiện yêu cầu khách rẽ sang lối khác, vì đường này đang có việc… Đó là các cán bộ, chiến sỹ công binh đã được phép của Bộ Công an cải trang làm công an giao cảnh, có nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an ninh suốt dọc đường mà các phân đội của Lữ đoàn 144 đang tập luyện gấp chuẩn bị cho Lễ tang quốc gia. Lực lượng gồm: Một phân đội 150 chiến sỹ tập trung ở Hội trường Ba Đình chuyên tập các động tác tiêu binh danh dự, tập tiếp cận và bảo vệ "mục tiêu”, tập đưa, đặt các vòng hoa của các đoàn thể nhân dân, các khách trong nước và khách quốc tế thật thuần thục, theo đúng các quy định hết sức nghiêm ngặt của nghi lễ Quốc tang. Một bộ phận thứ hai cũng tập trung ở Hội trường Ba Đình để chuyên tập khiêng quan tài. Quan tài thật bằng gỗ Ngọc Am rất quý hiếm, có hương thơm, đã được lồng kính nặng 200kg. Quan tài dùng để luyện tập phải bảo đảm như thật nên phải bỏ vào khung kính thêm 2 bao gạo nữa. Trên nắp hòm kính còn đặt một bát nước đầy. Mười sáu cán bộ, chiến sỹ khiêng sao cho thật thăng bằng khi lên bậc tam cấp hội trường và cả lúc đưa lên sân khấu, rồi từ sân khấu lại phải đưa hòm kính đặt lên bệ linh cữu… Tất cả phải tuyệt đối thăng bằng, không rung rinh hoặc cao, thấp không được đánh đổ một giọt nước. Còn bộ phận ở bên ngoài, tập phương án hành quân chuyển thi hài. Đây cũng là bộ phận rất quan trọng và thực thi công việc cũng không kém phần khó khăn. Anh em phải dùng xe cứu thương riêng đã được khử trùng tuyệt đối an toàn để chuyển linh cữu từ H67 bên nhà sàn về 75A và 75B, sau đó ngược lại. Dọc đường cũng phải tuyệt đối an toàn và bí mật. Đội hình của bộ phận này gồm 5 xe: 2 cứu thương (một xe chính thức chở thi hài Bác, một dự bị) và 3 xevũ trang chở các bác sĩ và các đồng chí lãnh đạo cao cấp đi hộ tống. Tuy chỉ là diễn tập nhưng không khí hết sức trang nghiêm.
Ngày 01 tháng 9. Buổi sáng, Bác được ông Vũ Kỳ báo cáo là các chiến sỹ tên lửa Sư đoàn 361 vừa bắn rơi một máy bay không người lái của Mỹ, Bác đã yêu cầu gửi ngay một lãng hoa cho đơn vị vừa lập chiến công. Buổi chiều, Bác có vẻ tỉnh táo hơn và bỗng ngỏ ý muốn ăn một bát cháo. Ngạc nhiên và mừng quá, anh chị em nấu bếp đã nấu một bát cháo rất ngon đưa lên. Bác ăn có vẻ khá ngon miệng. Các chị nấu bếp sung sướng quá cứ chắp tay cảm ơn Bác đã ăn được và không phải chỉ các chị mà tất cả các bác sĩ cùng các đồng chí lãnh đạo đều rất mừng và lại khấp khởi hy vọng. Niềm vui vẫn chưa hết. Đến tối, khi đồng chí Phạm Văn Đồng tới thăm, Bác đã nói với đồng chí Tô (tên gọi thân mật của đồng chí Phạm Văn Đồng) là ngày mai làm Lễ Quốc khánh cho Bác ra dự khoảng 15 phút để được gặp đồng bào. Bác ra ngồi trên sân khấu trước, sẽ quấn khăn che cổ… rồi hãy tiến hành khai mạc. Bác sẽ cố nói cho được bình thường mấy câu với đồng bào. Nhưng đồng chí Thủ tướng báo cáo là đã làm mít tinh từ đêm trước rồi, vì Bác đang mệt. Bác lặng im vẻ không vui, phải chăng Bác hiểu, vậy sẽ không còn có dịp nào để tiếp xúc với nhân dân nữa.
Bác vẫn có vẻ tỉnh táo thậm chí có phần nhanh nhẹn hơn một chút. Khi nhà bếp đưa lên mời Bác một chén con chè long nhãn, Bác tự tay mình cầm được chén chè và ăn được hết. Mọi người lại quá mừng. Trong những giây phút tỉnh táo như xuất thần ấy, Bác lại nhắc ông Kỳ - Thư ký của Bác nhớ gửi vòng hoa tới viếng nghĩa trang liệt sĩ dịp Quốc khánh này, thậm chí rất lạ là Bác vẫn còn nhớ được tới việc Đội Cảnh sát Khu phố 4 Ba Đình đã bảo đảm giao thông tốt, được thành phố khen mà ông Kỳ đã đọc trên báo để Bác nghe. Có thể nói từ ngày 12 tháng trước (tháng 8) đến ngày đầu tháng 9 này, chưa bao giờ các đồng chí lãnh đạo và những người phục vụ xung quanh Bác lại vui và lại hy vọng như hôm nay về sức khoẻ của Bác. Nhưng lại tiếc thay, niềm vui ấy chưa trọn được một ngày. Chiều hôm ấy Bác lại rất mệt, nhiều lúc gần như thiếp đi và lần đầu tiên mọi người xung quanh thấy Bác rên. Những liếng trên của Bác, nghe như đứt từng khúc ruột. Tất cả lại bàng hoàng, lo lắng. Các bác sĩ Việt Nam và Trung Quốc lại lao vào mọi việc cứu chữa. Khi mọi người được yêu cầu phải ra khỏi phòng Bác, điện tâm đồ bật lên, màn hình hiện ra toàn tín hiệu xấu.
Tuy nhiên, sau khi được làm thuốc, Bác lại dần dần không rên nữa và lại mở mắt như muốn kiếm tìm ai. Hiểu ý, Tổ Y tế lại cho mọi người trở vào nhà, lại vây quanh lấy Bác trên chiếc giường bệnh quá đỗi đơn sơ. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng khẽ đặt tay lên trán Bác, đồng chí Trường Chinh cầm lấy bàn tay gày guộc của Bác... Và đột nhiên Bác muốn uống cốc nước dừa. Bác nhìn ra hai cây dừa ở ngoài cửa. Đó là hai cây dừa do đồng bào miền Nam gửi ra biếu Bác lúc chúng mới chỉ là hai mầm non. Chính tay Bác trồng hai mầm non ấy cách đấy đã mấy năm, bây giờ chúng đã lớn và có quả. Tuy nhiên, bác sĩ Nhữ Thế Bảo ghé vội xuống lễ phép:
- Thưa Bác, bệnh Bác không nên uống nước dừa. Nếu Bác cần, xin lấy thứ khác để Bác. . .
Bác lắc đầu:
- Không sao đâu, Bác muốn được uống một chút nước dừa miền Nam thôi mà ... - Rồi Bác nho nhỏ nói tiếp: - Bác quê ở Nam Đàn nhưng mẹ Bác mất chôn ở Huế, cha Bác mất chôn ở tận Cao Lãnh. Chưa một lần Bác được trở lại hai nơi đó…
Tất cả đều đã hiểu và ai ai cũng hết sức xúc động. Thì ra vậy, đã bôn ba suốt cả tuổi thanh niên gần khắp trái đất này để tìm đường cứu nước, rồi lao vào những năm tháng cách mạng, tiếp đến hai cuộc chiến tranh gian nan, ác liệt. Cả cuộc đời hoàn toàn cống hiến cho sự nghiệp của nhân dân, Tổ quốc, nay đã về già vẫn không hề mai một những hình ảnh ruột thịt yêu dấu nhất của đời mình…Chính vì vậy càng thấy Bác gần gũi, càng vĩ đại hơn và tình yêu với Bác càng được nhân lên gấp bội. Trong khi mọi người còn chưa kịp nói gì, Bác lại cất tiếng nho nhỏ:
- Bác cám ơn tất cả các chú. Nhưng thôi, bây giờ các chú phải về làm việc đi!Còn Bác, đã có các bác sĩ ở đây rồi…
Mọi người lại muốn thốt lên từ trong gan ruột mình: Vẫn như vậy đấy, một khối óc vô cùng mẫn tiệp, một tâm hồn bao la vẫn luôn luôn toả sáng dù trong cơ thể chỉ còn mong manh sự sống.
Và ngày 2 tháng 9 năm 1969 đã tới. Sáng hôm ấy, như có linh cảm nào đó khác hẳn mọi hôm, trừ những người đi công tác xa, các đồng chí trong Bộ Chính trị đều tới thăm Bác khá sớm, dù trời mưa từ đêm, lác đác vẫn chưa tạnh. Các đồng chí phục vụ ở nhà H67 đã căng sẵn bạt trước nhà và bày nhiều ghế, có lẽ cũng có những dự cảm nào đó, biết hôm nay người tới sẽ đông.
Mưa vẫn lất phất bay. Bầu trời đầy mây xám, ủ dột, buồn bã như lòng người. Đúng là khá đông, đông hơn tất cả mọi hôm. Nhưng không một tiếng nói to, càng không một nụ cười. Tất cả đều chỉ xì xầm nho nhỏ. Trong phòng Bác nằm, các bác sĩ và y tá, y công trực vẫn sẵn sàng ngồi đó, rất im lặng, nhưng cũng không dấu được vẻ ưu tư. Ông Vũ Kỳ trên tay vẫn luôn luôn có chiếc quạt lá, ngồi bên giường thi thoảng ông lại nhè nhẹ phẩy cho Người… Người vẫn nằm đó trên chiếc giường nhỏ đơn sơ với chiếc chăn mỏng đắp kín từ trên cổ xuống, hai mắt lim dim như đang phiêu du vào một cõi tư duy sâu xa nào đó, hoặc một trời kỷ niệm xưa đang như những ảo ảnh đứt nối quay về…
Thế rồi đột nhiên, Bác lại đưa tay ôm lấy ngực và trằn mình nghiêng sang một bên.Các bác sĩ như bật tung cả lên. Tất cả lại vội nhào vào việc. Máy điện tim lại mở gấp. Bác đã bắt đầu cơn đau dữ dội. Bác sĩ Nhữ Thế Bảo vội ôm lấy Bác vuốt ngực cho Bác liên hồi và nhìn trên màn hình. Ông và tất cả đều bàng hoàng. Những tín hiệu chỉ còn thoi thóp và toàn chạy ngang với những đường sáng nhấp nhô cực kỳ yếu ớt… Hơn ai hết, tất cả các bác sĩ biết là tình thế đã biến chuyển thế nào rồi. Các bác sỹ của Viện 108 được lệnh lập tức lập tức tiến hành ngay các động tác xoa, day lồng ngực cho Bác. Còn ông Bảo vồ lấy chiếc điện thoại nghẹn ngào gọi gấp về 75A: "Chuẩn bị!... Tình hình đã hết sức ngặt nghèo".
Khi buông ống nói, ông quay lại nhìn lên máy. Các tín hiệu vừa lúc vụt tắt. Đồng hồ chỉ 9 giờ 47 phút…
Người đầu tiên bật lên như mê sảng: "Trời ơi!”, đó là ông Vũ Kỳ. Chiếc quạt trên tay ông rơi tuột xuống sàn. Rồi ông oà khóc, khóc rũ rợi. Nhiều tiếng khóc khác cũng bật lên. Các đồng chí lãnh đạo hết sức bàng hoàng cùng ào tới vây quanh giường Bác. Không ai cầm được nước mắt nữa. Thảm thiết nhất là đồng chí Phạm Văn Đồng vừa khóc nấc, ông vừa vươn cả đôi tay run rẩy ra như muốn ôm, muốn níu kéo Bác ở lại với đồng bào, đồng chí, với nhân dân, với chiến sĩ… Đồng chí Võ Nguyên Giáp là nhà quân sự có phần cứng rắn hơn, nhưng cổ họng cũng như đã nghẹn thắt và nước mắt trào ra như mưa tuôn. Lúc đó, các bác sĩ chuyên gia Trung Quốc cùng nhau xếp hàng ngang trước giường Bác chắp tay kính cẩn lễ Bác, đoạn cúi đầu buồn bã bước ra khỏi phòng, nhường chỗ cho tất cả các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của ta vào.
Mỗi lúc một thêm đông. Những tiếng khóc càng không kìm nén được và những giọt nước mắt cũng càng chảy dài trên tất cả những gương mặt trẻ, già - cả những gương mặt chưa một lần trong đời phải đổi sắc, dù trong bom đạn ngất trời, dù trong ngục tù khủng khiếp. Tất cả những gương mặt ấy tựa như nhoà cả đi, thậm chí tan nát trong niềm đau thương tột cùng và nỗi tiếc thương vô hạn.
Lúc đó ở cơ sở 75A, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, Phùng Thế Tài, Kinh Chi… cùng Tổ Y tế đặc biệt của bác sĩ Gia Quyền cũng đã nhận được chỉ thị ngay từ đêm sẵn sàng đợi lệnh. Đúng 9 giờ 47 phút sáng, đồng chí Phùng Thế Tài là người đầu tiên nhận được tin "sét đánh",chưa kịp ném ống nghe, dù là một vị tướng vô cùng gan góc, ông đã khóc oà. Nhưng rồi kịp nén mình lại, ông ra lệnh: "Tất cả về vị trí!". Thế là mọi cán bộ, chiến sĩ có mặt đều đứng phắt cả lên, mặt còn đầy nước mắt nhưng tất cả đều hết sức nghiêm chỉnh cùng đáp: "Sẵn sàng!". Trong những tiếng đáp ấy vẫn nghe vẫn đầy nước mắt và cả sự run rẩy bàng hoàng. Kíp chuyên gia Liên Xô gồm năm người: Viện sĩ Trưởng đoàn X.X Đê-lốp, Viện sĩ I.M Lô-pu-khin, Giáo sư I.N Mi-khai-lốp, Giáp sư B.I Khơ-mu-tốp cùng Bác sỹ G.N Sa-tơ-rốp đều trực ở đây từ mờ sáng, lúc này cũng đứng cả dậy, xúc động rớm lệ…
Tổ Y tế tiến vào gần hơn nữa, đồng chí Phạm Văn Đồng khẽ yêu cầu mọi người dãn ra cho anh em chuyên môn thực hiện nhiệm vụ. Khi bước tới giường, sát với Bác không phải riêng bác sỹ Châu mà cả Tổ Y tế đều không kìm được mình, cùng bật khóc oà. Nhưng rồi khi bác sĩ Quyền giơ tay ra hiệu bắt đầu nâng Bác lên, mọi người trong Tổ cùng gạt vội nước mắt… Và thế là cả 3 bác sỹ Quyền, Châu và Hát cùng cúi xuống, đưa tay ra… Tới giây phút này, tất cả những tiếng nức nở lại trào lên thắt ruột, cháy gan.
Bác được nhẹ nhàng nâng lên khỏi giường, rồi được đặt lên băng ca, sau đó lên xe cứu thương FH1468. Tất cả gọn gàng trong có 15 phút. Ôi! cả 15 năm dài Bác đã sống ở đây và làm bao nhiêu công việc vĩ đại cho nhân dân, cho Tổ quốc. Vậy mà nay Bác không thể nán lại thêm với đời, với dân tộc, đất nước, với biết bao cháu con xa gần, cho đến thắng lợi cuối cùng để Bác sẽ được vào thăm đồng bào miền Nam, thăm nơi cha mẹ Bác trút hơi thở cuối cùng mà trong tận thẳm sâu đáy lòng mình Bác vẫn không bao giờ quên thương nhớ.
Đoàn xe đặc biệt rời Phủ Chủ tịch, bầu trời vẫn đầy mây xám, vô cùng buồn bã, mưa vẫn chốc chốc lại lã chã rơi. Trời, đất vẫn chưa thôi tiếc thương người Anh hùng đã phải ra đi. Người đã trở về Thủ đô mùa thu 1945, ngày 2 tháng 9 năm ấy Người chính thức tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Năm nay 1969 cũng mùa thu, cũng ngày 2 tháng 9 nhưng Người lại từ biệt cõi đời này.
Ở 75A, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, Phùng Thế Tài đã đợi sẵn, phía sau là các chuyên gia Liên Xô. Và ròi, xe chở Bác đã tới.
Theo đúng nguyên tắc và thủ tục, công việc đầu tiên là làm biên bản sơ bộ khám nghiệm và tiếp nhận đã được thực hiện rất mau lẹ. Ngay sau đó, Bác được chuyển ngay vào phòng đặc biệt. Ở đó lúc này chỉ có Tổ chuyên gia Liên Xô và phía Việt Nam là hai đồng chí Phùng Thế Tài, Kinh Chi được uỷ nhiệm có mặt cùng hai bác sĩ Nguyễn Gia Quyền và Lê Điều có trách nhiệm hỗ trợ các chuyên gia trong mọi khâu kỹ thuật.
Đúng 12 giờ, các công việc kỹ thuật và khoa học bắt đầu trong không khí đặc biệt im lặng. Trước khi bắt tay vào làm nhiệm vụ, các chuyên gia y tế Liên Xô và các bác sỹ Việt Nam đều đứng nghiêm, cúi đầu im lặng trước thi hài Bác mặc niệm, thầm cầu xin vong linh Bác chứng giám cho công việc của họ.
Những yêu cầu khoa học về giữ gìn thi hài đã được nhất trí hoàn toàn giữa hai phía Liên Xô và Việt Nam như sau:
- Bảo đảm thi hài tốt, sẽ không có vi nấm, không đen xạm.
- Giữ được những nét đặc trưng của thi hài như khi còn sống, đặc biệt là mắt, mũi, miệng, râu, tóc và hai bàn tay.
- Giữ được lâu dài.
- Bảo đảm được yêu cầu có thể đông đảo ngườitới viếng, thăm trong môi trường bình thường.
Làm được đúng, triệt để những yêu cầu này, trên thế giới chỉ có các chuyên gia tiên Xô, bởi trong công việc này còn phải có những bí mật riêng mang tính quốc gia, ví dụ một dung dịch đặc biệt mà trên thế giới này chưa một nước nào có. Dung dịch này cấm không được phép phổ biến công thức. Khi Chính phủ Liên Xô đồng ý thì các chuyên gia mới được nhận dung dịch này và đem đi, và số lượng cũng được duyệt nghiêm ngặt.
Trong lúc các chuyên gia làm việc, hai ông Tài và Kinh Chi nén nước mắt cùng đứng im lặng quan sát. Hai ông đều thầm nhận thấy các chuyên gia quả là tuyệt vời thành thạo, hai bàn tay đúng là bàn tay vàng.Đã rất siêu việt trong tay nghề, các bác sỹ liên Xô còn biểu lộ rất rõ một tinh thần hết mình và tác phong vô cùng cẩn trọng, nâng niu từng sợi tóc, sợi râu, từng móng tay… và từng mũi kim tiêm. Làm việc đến quên cả nghỉ, quên cả ăn uống, từ 12 giờ cho tới 21 giờ khuya, các chuyên gia Liên Xô mới rời khỏi phòng. Riêng hai bác sĩ Việt Nam với tư cách người nhà còn phải nán lại để hoàn tất những công việc cuối cùng. Khi đồng hồ đã chỉ 24 giờ - nửa đêm, cả hai ông mới bước ra cửa, người lảo đảo vì quá mệt nhưng vẫn chưa sao hết xúc động, chỉ muốn một giấc ngủ ngay, để rồi ngày mai còn tiếp tục hỗ trợ các bạn Liên Xô làm thuốc, để "Công tác y tế bước 1 của giai đoạn 1 việc bảo quản thi hài” được hoàn thành. Rồi còn phải cùng nhau làm việc tiếp hai ngày nữa mới là hoàn tất "Giai đoạn 2”, để đêm 4 tháng 9 có thể đưa thi hài Bác tới Hội trường Ba Đình làm lễ viếng vào sáng ngày 6 tháng 9 theo đúng chương trình đã định.
Trong hai ngày 3 và tháng 9 ấy, trên Hội trường Ba Đình có khá nhiều bộ phận làm việc rất khác nhau chuẩn bị cho ngày lễ tang. Trông có vẻ tấp nập, nhưng không khí rất trầm buồn. Mọi người gần như im lặng, dù hối hả. Nhóm treo cờ băng, treo khẩu hiệu, nhóm xắp xếp lại các hàng ghế, nhóm chỉnh, thử lại các thiết bị âm thanh và các băng nhạc lễ, nhóm kiểm tra lại hòm kính của thi hài Bác trên sân khấu cùng toàn bộ các máy móc thiết bị điều hoà không khí, nhiệt độ, độ ẩm cùng hệ thống thông hơi, quạt gió đặt cả dưới gầm sàn… Những đội bảo vệ và tiêu binh danh dự cũng tập lại đội hình và di chuyển, làm sao cho mọi sự phối hợp, hiệp đồng thật ăn khớp với các bộ phận khác của Ban tang Lễ Nhà nước. Đông người quá mà địa điểm lại chật hẹp. Người của Bộ Kiến trúc, người của Bộ Văn hoá, người của Văn phòng Phủ Thủ tướng, Văn phòng Trung ương, người của công an, bảo vệ…. Tất nhiên không thể thiếu các cán bộ, chiến sĩ công binh những người đã trực tiếp xây dựng cơ sở 75A và cũng đã trở thành những "tác giả" chính làm nên cả cơ sở 75B ở Ba Đình này. Kỹ sư Bùi Danh Chiêu thuộc nhóm cán bộ công binh (do đại uý Trọng Quyển trực tiếp phụ trách) đã hoàn thành nhiệm vụ ở 75A vừa qua, mấy hôm nay anh liên tục có mặt ở đây để theo dõi, hoặc chỉnh lại các máy móc thiết bị thông hơi, quạt gió, điều hoà nhiệt, ẩmnhằm bảo đảm thông số của hòm kính thật tốt. Anh cùng các cán bộ của anh em chiến sĩ làm việc hết sức miệt mài, cần mẫn. Tuy nhiên để giảm bớt căng thẳng, trong đôi phút giải lao cũng hay ôn lại chuyện cười dở mếu, dở cười: Khi làm cái 75B này xảy ra chuyện có hòm mà không có kính!Nguyên do thế này: Kế hoạch và chủ trương làm cơ sở 75A thì quá rõ rồi, anh em đều biết cấp trên đã có lệnh cho công binh làm. Nhưng làm cơ sở nữa 75B trên Ba Đình thì nghe đâu trên lại trao cho một Bộ nào đó phụ trách. Cũng nghe nói Bộ nọ cũng đã làm được một vài việc, và cũng đi xin Liên Xô viện trợ. Nhưng gặp khó khăn, hoặc do chậm trễ tàu biển, xe lửa liên vận… thế nào đó, nên cuối cùng vật tư, máy móc, nhất là kính để làm hòm đặc biệt cho Bác vẫn chưa thấy đâu, trong khi đó cơ sở 75A đã cơ bản hoàn thành. Trước tình hình ấy, không hiểu Ban Chỉ đạo có giao cho công binh làm luôn cả 75B hay không. Lính ở dưới chỉ biết là ông Tài đã lệnh cho Công binh tranh thủ làm. Thế là bộ phận do ông Trọng Quyển phụ trách lại cùng nhau kéo lên Ba Đình. Nghiêm túc, triệt để chấp hành mệnh lệnh và luôn luôn chủ động sáng tạo, đó là truyền thống của quân đội. Lên Ba Đình lại phát huy mọi nỗ lực và sáng kiến làm xong được cả cái 75B. Anh em đã gọi vui đây là "phương án 2”. Nay thì quả là "phương án 2" đang phát huy tác dụng của nó.
Thế rồi tối 5 tháng 9 thi hài Bác đã được chuyển lên Hội trường Ba Đình, được đặt vào hòm kính giữa sân khấu đã được trang trí hết sức trang nghiêm. Đúng 6 giờ sáng ngày 6 tháng 9, các đồng chí lãnh đạo đã có mặt đầy đủ ở đây. Các chuyên gia Liên Xô cũng đến rất sớm và cẩn thận cho vận hành máy móc để kiểm tra lại lần cuối, xem lại các thông số kỹ thuật như nhiệt độ, độ ẩmvà cả các loại đèn chiếu xem có đủ tiêu chuẩn và bảo đảm hay không. Viện sĩ Đê-lốp ôm lấy các đồng chí Công binh và các đồng chí lãnh đạo của ta mà mừng rỡ bắt chặt tay các chuyên gia, bày tỏ những lời cảm ơn rất chân thành, rồi cùng mọi người chắp tay im lặng ngắm nhìn Bác trong khung kính dưới ánh đèn chiếu các loại, cả tia cực tím.
Bác nằm đấy trong khói hương thành kính tôn nghiêm, trong vùng ánh sáng ngời ngợi càng lộ rõ vẻ đại hiền nhân với gương mặt hơi hao gầy với màu da và những đường nét đặc biệt Việt Nam, với bộ râu thông thái, bộ quần áo ka ki bốn túi, cổ đứng, hết sức đơn giản và đôi dép cao su đặt riêng ở bên ngoài khung kính, phía dưới chân Bác. Nằm đấy mà dường như tình yêu bao la của Bác vẫn đang lan tỏa với tất cả mọi người. Bác như vẫn tư duy về biết bao điều lớn lao cho đất nước, cho dân tộc… Bác của chúng ta đó - lãnh tụ tối cao của công cuộc giải phóng nước nhà và xây dựng nên nước dân chủ, cộng hòa đầu tiên trên cả vùng trời Châu Á này, người mà UNESCO sau đó đã vinh danh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất..
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đồng chí tin cậy và thân quý của Bác từ những năm còn trên Việt Bắc vẫn chắp tay đứng đó,hai mắt nhòe lệ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, người học trò, người đồng chí, nhà quân sự xuất chúng vô cùng yêu quý và tin cậy của Bác, đứng bên. Vị tướng dẫu sao cũng vẫn cố kìm được những giọt lệ, nhưng mặt sắt lại và thoáng xanh đi trong biết bao niềm đau khôn tả. Những đồng chí khác trong Bộ Chính trị và Chính Phủ cũng đều chung nỗi niềm tiếc thương tràn đầy trên gương mặt và khóe mắt.
Ngoài trời lại mưa. Tạo hóa như vẫn khóc thương người Anh hùng đã đi xa.
Rồi các đoàn đại biểu của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, các đoàn thể quân đội và công an, đoàn nào cũng mang hoa kính cẩn viếng Bác. Nhưng hôm nay hoa nào cũng đều như héo buồn. Vòng nào cũng mang băng tang như mang theo cả biết bao giọt nước mắt, biết bao nỗi niềm thương, nỗi nhớ và lòng tri ân.
Cùng ra đứng ở bậc thềm hội trường nhìn cảnh nhân dân đội mưa đi viếng Bác, tiếng khóc râm ran khắp cả một vùng cháy lòng cháy ruột, đồng chí Nguyễn Lương Bằng thốt lên với đồng chí Lê Văn Lương:“Chủ trương của Đảng ta lưu giữ thì hài Bác quả là hoàn toàn đúng đắn, phải không anh?”.
Theo kế hoạch của Ban Lễ tang thì đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cùng các đoàn khách quốc tế tới viếng Bác đi riêng và được vào hội trường chỉ sau đoàn thân nhân của Bác ở Nghệ An. Trong danh sách các đoàn quốc tế, có Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Liên Xô do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kố-sư-ghin dẫn đầu; Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc do đồng chí Bộ trưởng Nngoại giao Trần Nghị dẫn đầu; Đoàn của Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia do Quốc vương Xi-ha-núc dẫn đầu; Đoàn đại biểu Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do Hoàng thân Xu-va-na-vông dẫn đầu.
Lễ viếng bắt đầu bằng bản nhạc “Hồn tử sĩ” thật trầm buồn. Không khí trong, ngoài hội trường bị nén lại đã lâu, nay tới lúc như trào với biết bao nỗi đau thương, tiếc nuối, nghẹn ngào.
Các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, thân nhân Bác và quốc tế lần lượt vào viếng trước. Rồi bắt đầu đến dòng người như vô tận của các đoàn thể nhân dân, các cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, các tôn giáo, các giới khoa học, tri thức, văn hoá, văn nghệ thuật, thể thao, y tế. Ai ai cũng như muốn được dừng lại lâu, thậm chí như muốn được ôm lấy lại quan tài kính mà vật vã khóc than. Đó là những bà mẹ, những ông già, những cháu bé chưa kịp vào hội trường, mới chỉ bước lên bậc tam cấp của hội trường, hoặc khi viếng xong trở ra hai mắt đầy lệ đã quỵ xuống vì quá đau buồn, thương tiếc.
Các sĩ quan làm nhiệm vụ đưa dẫn các đoàn cũng đều đã ướt đẫm nước mưa. Có nhiều người đã ngất đi. Các nhân viên y tế gần như liên tục phải làm việc cấp cứu. Riêng phóng viên báo chí trong nước và quốc tế có lẽ đã quen nghề nghiệp nên vẫn dẻo dai và hết sức năng động. Nhiều anh vẫn chạy khắp nơi, tất bật lấy tin, vội vã ghi hình, khi trong hội trường, lúc ngoài quảng trường. Họ đã ghi được không khí tiéc thương vô hạn và xúc động nghẹn ngào trong buổi tang lễ.
Lễ viếng sang ngày thứ hai. Người tới lễ Bác vẫn với mũ áo tề chỉnh mặc dầu trời vẫn sập sùi, trần mây nặng trĩu. Sáng hôm nay trên tầng 2 hội trường đã có một cuộc họp bất thường rất quan trọng của một số nhà khoa học y tế theo yêu cầu của Bộ Chính trị, do bác sĩ Vũ Văn Cẩn mới được đề bạt Bộ trưởng Bộ Y tế chủ trì. Họp lấy ý kiến của các nhà khoa học, vì sau ngày đầu viếng Bác mọi việc đã diễn ra hết sức hoàn hảo, nhưng nhóm các chuyên gia y tế Liên Xô đã nghĩ tới các công việc tiếp theo. Họ đề nghị lãnh đạo Việt Nam chuẩn bị sẵn sàng sau lễ viếng và lễ tang sẽ đưa thi hài Bác qua Liên Xô để tiếp tục làm thuốc và lưu giữ. Theo các chuyên gia thì chỉ Mát-xcơ-va mới có đủ điều kiện về môi trường và kỹ thuật. Việt Nam dẫu sao cũng mới bắt đầu thực hiện công việc đặc biệt này, thêm nữa vật tư, hoá chất, máy móc còn thiếu nhiều, riêng dung dịch đặc biệt các chuyên gia được đem sang đây chỉ đủ dùng cho 20 ngày là hết, trong khi đó Việt Nam lại đang có chiến tranh, không thể lường trước được những tình huống phức tạp xảy ra…
Vấn đề quá lớn, lập tức đã được cấp báo lên Bộ Chính trị. Trong cuộc họp bất thường có Giáo sư Đỗ Xuân Hợp, Phó Tiến sĩ Đặng Hanh Khôi, Phó Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phúc, Phó Tiến sĩ Nguyễn Khánh và các bác sỹ Nguyễn Gia Quyền, Lê Điều.
Các nhà khoa học của chúng ta đã thảo luận rất nghiêm túc, kỹ lưỡng và cuối cùng đều thấy: Tuy chưa có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực này nhưng các nhà y tế, khoa học của chúng ta từ lâu cũng đã có nghiên cứu về các ngôi mộ cổ, về các xác ướp, về việc gìn giữ thi hài bằng những phương pháp dân tộc truyền thống. Ngoài ra các bác sĩ ta cũng đã được học ít nhiều trên lý thuyết của thế giới về những việc này, nhất là vừa qua mới được học trực tiếp các chuyên gia Liên Xô nên công việc lưu giữ thi hài lâu dài tuy cực kỳ khó nhưng cũng không hoàn toàn xa lạ. Cuối cùng tất cả kiên quyết không đồng ý đưa Bác đi, xin lưu giữ Bác ở lại lâu dài trong nước và tin là ta có thể làm được. Quyết tâm này được lập tức báo cáo ngay lên Bộ Chính trị. Các đồng chí lãnh đạo đánh giá rất cao quyết tâm của đội ngũ bác sỹ nước nhà.
Trước đó, để các chuyên gia Bạn tận mắt hiểu sâu thêm về ân tình giữa Bác Hồ và nhân dân ta, Ban Chỉ đạo Lễ tang đã cho đưa các chuyên gia đi khắp nơi trong thành phố, nhất là trong lễ viếng. Các bạn đều đã phải thốt lên: "Quả là khó có thể đưa Bác Hồ đi xa nhân dân và đất nước Việt Nam".
Tới chiều ngày thứ ba của lễ viếng, cũng trên tầng hai Hội trường Ba Đình đã diễn ra cuộc họp chính thức giữa lãnh đạo cao cấp của hai bên. Phía Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn là đại diện, phía Liên Xô là đồng chí Kô-sư-ghin, cùng bàn về việc sau lễ tang có đưa Bác sang Liên Xô làm thuốc và bảo đảm mọi mặt như hai bên đã sơ bộ thống nhất từ năm 1967 hay không?
Trong cuộc họp, phía Việt Nam đã chân thành và thiết tha, căn cứ vào tình cảm sâu nặng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và cả sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ y tế của Việt Nam, đề nghị cứ để Bác ở lại Việt Nam. Phía Liên Xô thì nghiêm chỉnh theo đúng thoả thuận cũ năm 1967 tuyên bố sẵn sàng đón nhận thi hài Bác sang Mát-xcơ-va, và hứa sẽ hết lòng chăm sóc Bác Hồ như chăm sóc Lê-nin cho tới khi nào có điều kiện sẽ rước Bác trở lại Việt Nam.Thảo luận đi thảo luận lại, cả hai bên đều rất nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm. Cuối cùng đồng chí Kô-sư-ghin không khỏi xúc động chính thức phát biểu ý kiến: Thay mặt Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Liên Xô sang Việt Nam dự lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã hiểu rõ nguyện vọng chính đáng của Đảng và Nhà nước Việt Nam cùng nhân dân Việt Nam, vì vậy đồng chí quyết định tán thành đề nghị của phía Việt Nam để Bác Hồ lâu dài ở Việt Nam mãi mãi. Phía Liên Xô cam kết sẽ tiếp tục hết lòng hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam mọi mặt. Đồng chí sẽ chịu trách nhiệm về quyết định này. Đồng chí cũng cho biết đã tham khảo lại các chuyên gia Liên Xô hiện có mặt ở Việt Nam, họ cũng đã hoàn toàn nhất trí. Tuy nhiên, hiện có khó khăn lớn là Bạn mang sang dung dịch đặc biệtdùng cho việc lưu giữ thi hài, chỉ đủ dùng cho 20 ngày, nay đã sắp hết. Đồng chí Kô-sư-ghin cho biết đã nói với các chuyên gia Liên Xô: Nếu cuộc hội đàm cấp cao giữa đôi bên quyết định cứ lưu Bác Hồ ở lại, thì ngay ngày mai đồng chí sẽ cho phép một chuyên gia Liên Xô đi theo chuyên cơ của đồng chí về Mát-xcơ-va lấy thêm dung dịch đặc biệt và trở lại Việt Nam ngay cũng bằng máy bay. Như vậy chỉ độ 3 ngày nữa sẽ có dung dịch bổ sung kịp thời… Không còn biết nói gì hơn nữa, các đồng chí lãnh đạo Việt Nam đều đứng cả dậy ôm lấy đồng chí Kô-sư-ghin mà bày tỏ lòng tri ân vô hạn trước tình cảm cách mạng cao quý của những người cộng sản và Chính phủ Liên Xô anh em…
Khi hai đoàn đại biểu rời khỏi phòng xuống tầng dưới ra để về qua cửa bên, một số cán bộ Việt Nam đang làm nhiệm vụ ở đó, thấy vẻ mặt của các vị lãnh đạo của cả đôi bên, đã biết kết quả ra sao rồi. Các vị đi khuất anh em cùng nắm lấy tay nhau mừng rỡ, chỉ còn thiếu reo lên.
Ngày 9 tháng 9 năm 1969, Lễ truy điệu Bác được tổ chức trọng thể ngoài Quảng trường Ba Đình để nhân dân Hà Nội và các tỉnh lân cận có thể tới dự không phải hạn chế số người như trong lễ viếng.
Từ mờ sáng, các đoàn người đủ các giới phụ lão, thanh niên, phụ nữ, nhất là các em thiếu niên, học sinh, sinh viên hôm nay đi rất đông cùng với đủ các giới nghề nghiệp khác nhau từ ngoại tới nội thành và các tỉnh lân cận.Đặc biệt hôm nay có rất đông các sắc tộc như: Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao và có cả Êđê, Bana, Càtu, Vân Kiều… ở phía Nam mới ra Bắc hoặc đã ra lâu nay đang là sinh viên, học nghề, hoặc diễn viên văn nghệ, vận động viên thể dục thể thao đến viếng Bác. Đại biểu các tôn giáo cũng rất đông, quân đội, công an, các cơ quan, đơn vị ở Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Quảng trường Ba Đình kín đặc, người còn tràn cả ra các đường Bắc Sơn, Hoàng Văn Thụ. Nếu như trong mấy ngày qua làm lễ viếng trong hội trường, nhân dân, cán bộ nối nhau đi từng đoàn rất dài vào làm lễ xong lại nối nhau đi ra, đã tạo nên hình ảnh một dòng sông lớn bất tận, thì hôm nay lễ tang làm ngoài trời lại là một khung cảnh khác. Một biển người mênh mông dào dạt như sóng. Nếu không khí bao trùm mấy ngày lễ viếng là vô cùng đau thương, thì hôm nay vừa đau thương nhưng cũng vừa cả tự hào. Đau thương thì đã rõ, còn tự hào là đứng trong hàng ngũ của hơn 10 vạn con người bạt ngàn này, ai ai dường như cũng đều cảm thấy niềm tin và tự hào về truyền thống thống nhất và sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc mình.
Buổi lễ đã bắt đầu bằng đoàn quân nhạc hùng hậu gồm mấy trăm người cùng tấu lên bản Quốc ca hùng tráng, sau đó là bài Hồn tử sĩ … Không khí trên toàn quảng trường như thay đổi hẳn. Im phắc. Ban Tổ chức lễ tang đọc lời khai mạc, giới thiệu 50 đoàn khách quốc tế và trên 10 vạn đồng bào đã có mặt trong buổi lễ lớn này. Tiếp đó, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng với mái tóc vẫn còn đen của tuổi trên 60, bước lên bục gỗ cao, giữa 7 cây micro gần như vây tròn, được đặt ngay trên mặt đường trước lễ đài lớn. Trên lễ đài chỉ có một chân dung rất lớn của Bác với Quốc kỳ và Đảng kỳ. Trước ảnh Bác là một đài hương cũng rất lớn với trầm, hương nghi ngút.
Đồng chí Duẩn với giọng Quảng Bình tha thiết lại ngập tràn xúc động vùa mới đọc được mấy câu mở đầu: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn…”.
Ngay lập tức dưới lễ đài, các đoàn đại biểu, quần chúng nhân dân, nhiều người đã òa khóc.
Rồi cũng với giọng đầy xót thương và vô cùng kính trọng, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục đọc trong nghẹn ngào, thương cảm không sao nén lại được:
" … Hồ Chủ tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam và Mặt trận thống nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết lên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta… ".
Tiếng nức nở trên biển người dường như không thể nén lại được nữa, cùng trào lên trên khắp quảng trường…
Rồi đồng chí Lê Duẩn nén xúc động, dõng dạc đọc những lời thề của nhân dân trước Anh linh của Bác:
Lời thề thứ nhất:
... " Vĩnh biệt Người, chúng ta xin thề: Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thoả lòng mong ước của Người”.
Lập tức cả hơn 10 vạn con người cùng đồng thanh hô vang: " Xin thề!".
Lời thề thứ hai:
“Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”.
Lời thề thứ ba:
“Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi ".
Lời thề thứ tư:
“Luôn luôn phát huy tình cảm quốc tế trong sáng của Hồ Chủ tịch, hết lòng góp sức vào việc khôi phục và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa và giữa các Đảng anh em thiên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, thắt chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc Đông Dương, gia sức ủng hộ phong trào cách mạng của nhân dân các nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ".
Lời thề thứ năm:
“Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh rèn luyện mình thành những chiến sỹ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của Hồ Chủ tịch. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng!".
Cứ sau mỗi lời thề, cả hơn 10 vạn con người lại giơ cao tay hô vang như sấm: " Xin thề!". Nhưng khi bài điếu văn rất súc tích và cảm động ấy kết thúc, tiếng khóc lại cùng bật lên nhiều hơn, lớn hơn trước. Các cháu thiếu nhi khóc như mưa như gió, nhiều cháu như mê đi vì quá xúc động, lăn lộn trong vòng tay bạn bè. Cả rừng người cùng chuyển động, râm ran, nức nở. Những người gan góc nhất không bật ra tiếng khóc cũng phải âm thầm lau ngấn lệ trên khoé mắt. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… đều cùng rời vị trí dưới chân lễ đài tiến ra với đồng bào, trước hết là đến với các cháu để an ủi. Nhưng thấy các đồng chí, các cháu lại càng khóc to, khóc rũ, đến nỗi chính các đồng chí cũng không cầm được nước mắt nữa. Đây là lúc các đoàn khách quốc tế, các phóng viên quốc tế hết sức chăm chú để mau lẹ ghi hình hoặc ghi âm; nhiều người đã phải thốt lên là họ đã được chứng kiến ở đây cả một dân tộc khóc than thương tiếc lãnh tụ kính yêu của mình. Anh I-sa-ha-ki Mi-sao, Trưởng đoàn quay phim của hãng Nihon Denpa news Nhật Bản cũng đã nói: "Phim này của chúng tôi sẽ không cần phải thuyết minh gì nhiều, chỉ riêng hình ảnh quay được hôm nay: Cả dân tộc Việt Nam khóc than, thương nhớ Chủ tịch Hồ Chí Mình như thế nào, đã đủ nói lên tất cả!". Anh Jêm Ca-xtin, phóng viên báo Nhân đạo Pháp cũng thốt lên: "Từ nhỏ tôi đã được nghe nói cả nhân dân Ấn Độ khóc thương thánh Gandhi của họ. Bây giờ tôi mới thấy cảnh tượng này ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ quả là một người vĩ đại "…
Hôm sau, các quan khách quốc tế lần lượt ra về. Các cán bộ lãnh đạo của ta đưa tiễn đồng chí Kô-sư-ghin ra tới tận sân bay. Bên cạnh đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô còn có cả một chuyên gia y tế cùng về Mát-xcơ-va để lấy gấp dung dịch đặc biệt mang sang Hà Nội, đúng như lời hẹn hôm trước. Các đồng chí Việt Nam chỉ còn biết thiết tha ôm lấy những người đồng chí, anh em hết sức nhiệt tâm và vô cùng trung hậu của mình.
PHẦN II: QUÂN DÂN MỘT LÒNG XÂY DỰNG LĂNG BÁC
Đã sang tháng 1 năm 1970
Nhưng vẫn còn là tháng Chạp mùa đông của năm Kỷ Dậu. Vẫn rét, tuy vậy không còn rét buốt nữa, mà bây giờ là cái rét diêu diêu đầy gợi cảm của Hà Nội. Thành phố đã thấp thoáng có chút màu sắc và không khí tết Canh Tuất. Nhưng dẫu sao nỗi buồn Bác mất hồi tháng 9 năm 1969 mới đây vẫn chưa nguôi trong lòng người Thủ đô và cả nước. Thật vậy dường như chưa một ai quên những ngày đau buồn ấy…
Sáng nay, đồng chí Nguyễn Ngọc Chân, Viện trưởng Viện Thiết kế dân dụng Bộ Kiến trúc đạp xe tới cơ quan Bộ. Ông vừa đạp xe vừa nhớ lại Lễ Quốc tang Bác Hồ đã hoàn tất với tất cả sự trang trọng và tình sâu nghĩa nặng của toàn dân. Nay mọi công việc đã chuyển sang những nội dung cũng rất to lớn khác là: Một mặt tiếp tục lưu giữ thi hài Bác thật tốt, mặt khác phải tích cực triển khai mọi mặt công tác chuẩn bị để có thể sớm xây Lăng Bác, ngôi nhà vĩnh hằng của Người, sao cho khang trang to đẹp, đáp ứng được lòng mong muốn của toàn Đảng, toàn dân…
Việc tiếp tục bảo vệ và giữ gìn thi hài Bác vẫn do bên quân đội đảm trách theo Nghị quyết của Bộ Chính trị. Quân ủy Trung ương đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Công binh chọn lựa một số cán bộ, chiến sỹ triển khai khảo sát, thiết kế, thi công cải tạo xây dựng lại một phần công trình K5 - một căn cứ địa của Trung ương thuộc vùng rừng núi Ba Vì để di chuyển thi hài Bác lên đó cho tới khi xây dựng xong Lăng. Việc xây dựng Lăng, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho Bộ Kiến trúc và bây giờ nhiệm vụ này được đặt lên hàng đầu, hết sức to lớn và khẩn trương không phải chỉ riêng với Bộ Kến trúc mà là cả nước… Thật vậy, gần như song song với nhau, trong khi Bộ đội Công binh khẩn trương cải tạo, xây dựng công trình K5 trên Ba Vì, thì ở Hà Nội, Bộ Kiến trúc cũng bắt đầu tích cực tiến hành mọi việc chuẩn bị cho xây dựng Lăng. Trong nhiệm vụ hết sức to lớn, việc then chốt, quan trọng số một là tổ chức nghiên cứu, thiết kế mô hình Lăng, lập ra nhiệm vụ thiết kế và khởi thảo được bản thiết kế cho tốt nhất. Ông Nguyễn Ngọc Chân là Viện trưởng Viện Thiết kế nên đã được Bộ giao nhiệm vụ chủ trì việc này. Ông cùng kiến trúc sư Phó Viện trưởng Viện Thiết kế Vương Quốc Mỹ đã xin được gặp đồng chí Trường Chinh để lĩnh ý kiến chỉ đạo, rồi sau đó hai ông Nguyễn Ngọc Chân và Vương Quốc Mỹ đã cùng một số kiến trúc sư và cán bộ trong Viện khởi thảo được Bản Nhiệm vụ thiết kế xây dựng Lăng Bác, giao cho đồng chí Khôi Nguyên viết và vẽ lại hoàn chỉnh.
Hôm nay, ông Chân lên Bộ báo cáo công việc đã chuẩn bị để sẽ làm việc với Đoàn chuyên gia xây dựng của Liên Xô sắp sang Việt Nam trong thời gian tới. Bộ trưởng Kiến trúc Bùi Quang Tạo đã chờ sẵn ở phòng làm việc. Khi nghe ông Chân trình bày mọi ý chuẩn bị cho cuộc làm việc với Đoàn Liên Xô, ông tỏ vẻ hài lòng và không hỏi thêm gì nhiều, chỉ nhắc lại mấy ý lớn - cũng là những nguyên tắc mà Bộ Chính trị đã chỉ ra là làm việc với Bạn rất cần phải nhắc tới để Bạn nắm được ý định của ta. Đó là:
1. Lăng phải bảo đảm giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh nguyên vẹn và lâu dài, chống được các biến động có hại của khí hậu, thời tiết, và phải an toàn, phòng chiến tranh, địch phá.
2. Cần thể hiện được tính hiện đại mà vẫn mang đậm màu sắc dân tộc. Trang nghiêm, nhưng giản dị.
3. Cần chú ý bảo đảm được sự thuận tiện cho nhân dân và khách nước ngoài đến viếng đông và liên tục. Bảo đảm sự kiên cố, bền vững của công trình.
4. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh phải xây dựng ở Khu Ba Đình lịch sử.
Trước khi ông Chân ra về, Bộ trưởng còn vui vẻ nhắc lại mấy điều mà ông tâm đắc về mô hình Lăng Bác trong bản thiết kế do ông Chân và một số kiến trúc sư của Viện Thiết kế dân dụng phác thảo. Trước hết khối Lăng mang hình dáng cách điệu của một đài sen. Sen là loài hoa ở Việt Nam được coi là tinh khiết và cao quý. Sen còn đồng âm, đồng nghĩa với quê hương Bác: Làng Sen (Kim Liên). Kết cấu Lăng đã chú ý tính dân tộc, trước hết là không để Bác ở sâu dưới mặt đất, thi hài Bác phải được đặt ở khối chính của Lăng và trên cao. Lễ đài cho các vị lãnh đạo đứng chủ trì các cuộc mít tinh và duyệt binh đặt ở phía trước Lăng nhưng phải thấp hơn nơi Bác nằm để giữ được phong cách truyền thống của dân tộc làtôn kính vĩ nhân, tôn kính tổ tiên. Một điểm nữa: Dù đẹp nhưng Lăng vẫn giữ được vẻ giản dị đúng theo phong cách rất giản dị của Bác, không hoa văn rườm rà, hầu hết chỉ là mặt phẳng, kể cả các cột nhưng vẫn rất trang nghiêm và cũng mang cả dáng dấp hiện đại mà không hề khô cứng. Ông Chân thay mặt anh em cảm ơn những nhận xét của đồng chí Bộ trưởng rồi chào ra vê.
Bốn ngày sau, ngày 9 tháng 1 năm 1970, Đoàn chuyên gia Liên Xô đầu tiên về xây dựng Lăng Bác đã tới Hà Nội. Ông Chân thay mặt lãnh đạo Bộ Kiến trúc ra đón Bạn từ sân bay. Đoàn sang 7 người: Viện sĩ Ka-diu-sốp, một Trung tướng đã đứng tuổi, đại diện Ủy ban Liên lạc kinh tế với nước ngoài thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô làm trưởng đoàn, các thành viên khác thuộc Viện nghiên cứu thiết kế, Cục Tổ chức xây dựng Mát-xcơ-va, Viện Kỹ thuật vệ sinh, Viện Kỹ thuật chế tạo máy lạnh.
Sáng hôm sau, buổi làm việc của hai đoàn được tiến hành, rất trang trọng, nhưng cũng rất thân mật. Đoàn Việt Nam gồm trưởng đoàn là Viện trưởng Viện Thiết kế dân dụng Nguyễn Ngọc Chân cùng 7 cán bộ là người của Bộ Kiến trúc, ngoài ra còn có 4 cán bộ của Bộ Tư lệnh Công binh. Tất cả các thành viên đều là các kỹ sư, kiến trúc sư, là những chuyên gia giỏi trong ngành kiến trúc, xây dựng ở Việt Nam.
Mở đầu cuộc họp, phía Việt Nam thông cáo để Bạn biết quyết định của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam về xây dựng Lăng Bác Hồ tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội với những yêu cầu mà Bộ trưởng Bộ Kiến trúc Bùi Quang Tạo đã nhắc lại cách đây mấy ngày. Về phía Liên Xô, trước hết Bạn bày tỏ lòng tiếc thương và vô cùng tôn kính đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ anh minh của nhân dân Việt Nam, nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc nổi tiếng trên thế giới, người bạn lớn của Liên Xô. Tiếp đó đồng chí Ka-diu-sốp cũng thông báo quyết định của Chính phủ Liên Xô giúp đỡ Việt Nam về kỹ thuật trong việc thiết kế, xây dựng, và cung cấp các trang thiết bị kỹ thuật cho Lăng Bác. Sau đó hai bên thoả thuận lấy bản "Sơ thảo nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh " do phía Việt Nam đã chuẩn bị để cùng thảo luận.
Các chuyên gia Liên Xô là nững người có kiến thức sâu rộng, giàu kinh nghiệm, luôn luôn dành cho ta tình cảm hữu nghị và trách nhiệm cao. Các Bạn đã xem rất kỹ các bản phác thảo mô hình Lăng, đọc rất kỹ từng vấn đề (đã được dịch sang tiếng Nga) trong bản dự thảo thiết kế do ta soạn thảo. Sauđó các Bạn Liên Xô đã chân thành giới thiệu những kinh nghiệm và thực tiễn của Liên Xô trong xây dựng và tôn tạo Lăng Lê-nin. Hai bên cùng tập trung thảo luận góp ý vào bản dự thảo của ta.
Buổi làm việc đầu tiên đạt kết quả tốt. Một trong những nội dung ddwwocj dành nhiều thời gian thảo luận là xác định lại tính chất của Lăng. Riêng hai từ “Vĩnh viễn” hay “lâu dài” cũng đã thảo luận đi thảo luận lại rất sôi nổi. Những buổi làm việc tiếp theo hai bên tập trung thảo luận về mô hình Lăng và Bản “Thiết kế sơ bộ nhiệm vụ xây dựng Lăng Bác" do ta soạn thảo. Nhiều ý kiến trao đổi rất thẳng thắn như Lăng có nên xây thành ba phần không? Phần dưới có nên phỏng theo kiến trúc truyền thống cổ truyền của Việt Nam là xây theo phong cách bậc tam cấp không? Tầng trên, tầng chính, nơi đặt thi hài Bác, xung quanh có nên xây cột tạo ra các khoảng cách mang hình tượng nhà 5 gian, hay chỉ 3 gian không?... Ngoài ra những kiến trúc khác xung quanh Lăng sẽ là những kiến trúc nào để cùng tạo nên một quần thể mà Lăng là chủ thể?... Cứ như thế, sau một tuần làm việc, các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đã sửa chữa, bổ sung, rồi cùng thống nhất trong một bản "Dự thảo nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh” đầy đủ, chặt chẽ hơn trước, đáp ứng được các yêu cầu mà Bộ Chính trị đề ra: Lăng và Quảng trường, Khu lưu niệm trong Phủ Chủ tịch, Bảo tàng Hồ Chí Minh sẽ xây dựng sau này và các công trình phụ cận, tất cả tạo nên một quần thể kiến trúc lịch sử, văn hóa thống nhất, trong đó Lăng là chủ thể.
Phía Bạn rất hoan nghênh và sẽ bổ sung thêm vào bản Nhiệm vụ thiết kế một số thay đổi kỹ thuật cần thiết. Về phía Việt Nam hứa sẽ tìm thêm những số liệu gốc phục vụ cho việc thiết kế và sẽ gửi sang cho Bạn chậm nhất là sau hai tuần Bạn rời Hà Nội. Việt Nam cũng sẽ cử một số kiến trúc sư và kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật giỏi sang Liên Xô tham gia thiết kế kỹ thuật. Việt Nam cũng nhận về phần mình việc giải phóng mặt bằng, tạo mặt bằng thi công, đồng thời cung cấp năng lượng, điện, nước, máy móc thi công, phương tiện vận chuyển, cung cấp những vật tư mà trong nước có thể khai thác được.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thân mật tiếp Trung tướng - Viện sĩ Ka-diu-sốp cùng các thành viên trong đoàn trước khi về nước. Thủ tướng nhấn mạnh: Kết quả làm việc của Doàn là bước mở đầu xây dựng Lăng Bác Hồ. Trong quá trình làm việc cán bộ hai bên đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, đoàn kết gắn bó, tình cảm anh em, đồng chí rất cao quý.
Khi Bạn về nước rồi, kiến trúc sư, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật của ta đã làm việc chi tiết thêm về bản dự thảo này. Chỉ sau hơn một tháng, ta đã hoàn chỉnh bản “Nhiệm vụ thiết kế sơ bộ Lăng Bác”.
Sang tháng 5 (1970), một đoàn chuyên gia Liên Xô lại sang ta. Đoàn trưởng là kiến trúc sư danh tiếng Mét-vê-đép - Viện trưởng Viện thiết kế các công trình đặc biệt của Liên Xô cùng kiến trúc sư Ga-rôn I. Sa-cô-vích trẻ hơn nhưng cũng rất nổi tiếng (sau này, khi khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, để ghi nhận công lao, đóng góp, Đảng, Nhà nước ta đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho hai đồng chí này). Kiến trúc sư Ga-rôn chuyển cho đoàn ta 5 bản phác thảo mặt đứng và một bản phác thảo mặt phẳng của Lăng do các kiến trúc sư Liên Xô nhiệt tâm đã tự nguyện thiết kế để cùng trao đổi, thảo luận. Đoàn Việt Nam rất cảm ơn tấm lòng của các Bạn Liên Xô, nhận sẽ nghiên cứu ngay.
Về Bộ Kiến trúc, anh em ta cùng xem kỹ lại các bản sơ thảo của Bạn. Mọi người đều thấy khá hay, tuy nhiên tính dân tộc và những đặc sắc Việt Nam không được đậm nét cho lắm. Cũng dễ hiểu, bởi tác giả của những bản phác thảo này dù đều là những kiến trúc sư đầu ngành nhưng chưa một lần tới Việt Nam, chưa nghiên cứu được nhiều về văn hoá Việt Nam… Tranh thủ thêm ý kiến các kiến trúc sư đầu ngành của ta như Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Cao Luyện, Ngô Huy Quỳnh… các ông này cũng thống nhất nhận xét là các bản phác thảo của Bạn thể hiện tính dân tộc chưa rõ. Mọi người cùng nhất trí đề nghị hai bên lấy bản phác thảo thiết kế sơ bộ của Việt Nam làm cơ sở thảo luận và kiên trì bảo vệ mấy đặc điểm dân tộc của ta: Tầng dưới xây theo kiểu bậc tam cấp, tầng trên có hiên và có các hàng cột…
Hôm sau vào họp. Sau một hồi bàn thảo, hai bên nhất trí lấy bản Thiết kế sơ bộ công trình Lăng Bác đã khởi thảo tại Liên Xô làm cơ sở để cùng thảo luận, tập trung về mặt khoa học và kỹ thuật. Những ý kiến của Bạn đã được ghi nhận là: Cần chú trọng hơn nữa tới các giải pháp về môi trường, khí hậu nhiệt đới, do đó một số phòng cần nới rộng thêm diện tích, các hệ thống thiết bị phải có dự trữ thay thế 100% để bảo đảm trong bất cứ tình huống nào, công trình vẫn phải hoạt động được bình thường. Ta hoàn toàn nhất trí.
Sau khi đoàn Liên Xô về nước, với tinh thần hết sức cẩn trọng, khẩn trương, ta lại mở một cuộc hội thảo từ 15 đến 28 tháng 5 ở Hà Nội và lại mời một đoàn chuyên gia Liên Xô sang cùng tham gia. Đoàn sang lần này do Viện sĩ Xa-mô-din - đại diện Ban Kinh tế đối ngoại Liên Xô làm trưởng đoàn. Thành viên của đoàn có kiến trúc sư, Viện sĩ Ga-rôn, đã sang ta lần trước, một kỹ sư điện, đồng chí Ma-xô-bô-vi-lôp - đại diện ban Văn hóa đối ngoại, Trưởng phòng Vật tư Ki-rin-kô, Trung tá Xcô-lôp. Phía Việt Nam do Bộ trưởng Bùi Quang Tạo trực tiếp làm trưởng đoàn, các thành viên gồm có kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân, Viện trưởng; kiến trúc sư Vương Quốc Mỹ, Viện phó; phía quân đội có Đại tá Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng; đồng chí Trần Kinh Chi, Cục trưởng Bảo vệ; đồng chí Trần Bá Đặng, Phó Tư lệnh Công binh, đồng chí Lương Soạn, Trưởng phòng Công trình Bộ Tư lệnh Công binh và đồng chí Nguyễn Trọng Quyển, Trưởng ban Thiết kế thuộc Phòng Công trình Bộ Tư lệnh Công binh… Cuộc hội thảo chia ra hai nhóm làm việc: Nhóm kiến trúc có kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân, kiến trúc sư Vương Quốc Mỹ và kiến trúc sư Ga-rôn I. Sa-cô-vích.. Nhóm mặt bằng trong Lăng có các đồng chí: Trần Bá Đặng, Lương Soạn và Nguyễn Trọng Quyển. Như đã thành truyền thống, Hội nghị trao đổi rất cởi mở, chân thành và cũng rất sôi nổi, đã kéo dài ngót nửa tháng. Cuối cùng hai bên đã thống nhất ghi vào biên bản xác nhận Bản thiết kế sơ bộ công trình Lăng Bác làm trước giữa hai bên mang số hiệu 75808 cơ bản đã thể hiện trình độ chuyên môn cao, có chất lượng tốt. Hội thảo liên tịch lần này chỉ bổ sung một số điều và sửa lại đôi chỗ.
Sau cuộc hội thảo, ta đã báo cáo lên trên đầy đủ nội dung thảo luận và kết luận của hội thảo, cũng báo cáo cả ý kiến khác nhau để trên tham khảo. Thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Trường Chinh lắng nghe các ý kiến. Tuy nhiên, không quá vội vã, chưa muốn có quyết định cuối cùng, cần lấy thêm nhiều ý kiến của đông đảo nhân dân, đồng chí Trường Chinh thay mặt Bộ Chính trị đã chỉ thị mở một cuộc vận động sáng tác các mẫu thiết kế Lăng Bác và đem triển lãm các mẫu được chọn swo bộ ấy để lấy ý kiến của đông đảo nhân dân…
Thế là cuộc vận động sáng tác mô hình thiết kế Lăng Bác đã nhanh chóng được hưởng ứng rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân, trong nước và cả kiều bào nước ngoài, lưu học sinh và cán bộ, nhân viên Việt Nam đang công tác ở nước ngoài. Sau hai tháng, Ban Tổ chức cuộc vận động đã nhận được hơn 200 phương án thiết kế khác nhau của 16 đơn vị, ngành và nhiều cá nhân gửi tới. Ban Tổ chức lập Hội đồng sơ tuyển, chọn ra được 24 phương án có nhiều ưu điểm nhất để triển lãm lấy thêm ý kiến nhân dân. Ban Tổ chức dã chọn năm địa điểm triển lãm là: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La và Kim Liên - Nghệ An quê Bác.
Triển lãm ở Hà Nội mở tại Phòng Thông tin Tràng Tiền, khai mạc ngày 2 tháng 9 năm 1970, bế mạc ngày 30 tháng 10. Ngày bế mạc vẫn còn rất đông người tới xem và đề nghị kéo dài hơn nữa. Số lượt người xem đếm được là 462.499 lượt người với đủ nghề nghiệp, đơn vị công tác, tuổi tác và dân tộc khác nhau.
Ở Nghệ An quê Bác, triển lãm mở cửa từ ngày 3 tháng 9 năm 1970 đến ngày 30 tháng 9 năm 1970. Đã có 23.766 lượt người tới xem và 1.526 người tham gia ý kiến. Riêng ở làng Sen quê Bác triển lãm diễn ra hết sức nhộn nhịp. Người ở khắp vùng kéo về. Có những cụ già tóc bạc phơ, có những cụ già trước kia từng tham gia "Xích vệ đỏ" cũng chống gậy tới xem triển lãm. Có người vừa xem vừa khóc nhớ Bác. Những đơn vị bộ đội trên đường hành quân vào Nam chiến đấu cũng dừng lại vào xem triển lãm, dâng hương và hứa với Bác vào Nam sẽ kiên quyết đánh thắng quân thù xâm lược, và cũng không quên góp một số ý vào các đồ án xây dựng để rồi tiếp tục cuộc hành quân.
Tại Thái Nguyên, triển lãm mở cửa chậm hơn một chút (từ 1 - 10 đến 05 - 11 - 1970) nhưng cũng đã có 66.084 lượt đồng bào các dân tộc về thăm phòng trưng bày mô hình Lăng Bác, có 2.846 ý kiến tham gia đóng góp.
Phòng triển lãm tại Sơn La mở từ ngày 1 tháng 10 năm 1970 đến ngày 1 tháng 11 năm 1970 với hơn 26.623 lượt đồng bào tới xem, gồm đủ các thành phần thuộc các dân tộc, đã đóng góp nwhngx ý kiến hết sức mộc mạc, chân thành và vô cùng xúc động. Có nhiều người đến trông thấy ảnh Bác đã ôm mặt khóc. Bà con dân tộc thì xúc động nói: "Các đồng chí xây Lăng Bác cho đẹp, cho to. Bà con dân tộc sẽ về viếng Bác cho thoả lòng mong ước…”.
Cuộc triển lãm ở Hải Phòng mở muộn hơn, từ ngày 02 tháng 10 năm 1970 đến hết ngày 08 tháng 11 cùng năm. Trong 32 ngày triển lãm mở cửa đã có tới 164.565 lượt đồng bào tới xem với 6.035 ý kiến đóng góp vào các bản đồ án.
Cuộc tuyển chọn và trưng bày các đồ án xây dựng Lăng Bác đã thu được kết quả rất tốt đẹp. Tổng cộng có 745.487 lượt người tới xem và 34.022 người tham gia góp ý. Trong số 24 phương án được đưa ra triển lãm, có 5 phương án được người xem tán thành và tập trung ý kiến góp ý nhiều nhất đó là phương án của Viện Thiết kế dân dụng (Bộ Kiến trúc) mang số 1, phương án mang số 10 của Viện Thiết kế quy hoạch thành thị, nông thôn (cũng của Bộ Kiến trúc), phương án mang số 13 của đồng tác giả: Một số cán bộ thuộc Bộ Giao thông vận tải, Bộ Cơ khí luyện kim và Trường Đại học Xây dựng, hai phương án số 15 và 16 là của quân đội (thuộc Bộ Tư lệnh Công binh).
Phương án số 1 của Viện Thiết kế dân dụng (Bộ Kiến trúc - do ông Nguyễn Ngọc Chân và ông Vương Quốc Mỹ chủ trì) có nét đặc sắc (tầng dưới là bệ tam cấp, trông rất tôn nghiêm mà cũng rất thân thuộc với phong cách kiến trúc Việt Nam. Thân Lăng là tầng trên, tầng chính, có các cột xung quanh tạo hình ngôi nhà 5 gian rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam. Trên nóc Lăng vẫn được nhắc lại tam cấp một lần nữa với các góc vát gợi lên hình ảnh những góc đao của mái đình, mái chùa ở quê ta.
Phương án số 10 do kiến trúc sư Hoành Như Tiếp chủ trì, có tư tưởng khác: Riêng Lăng đã là cả một quần thể kiến trúc, nên giữ lại lễ đài cũ vốn có từ lâu, dùng 3 cổng của lễ đài này làm cổng Lăng. Khách đi viếng Bác qua vòm cổng, sẽ qua một khu vườn rộng cây xanh, với hồ nước và cây cảnh…rồi mới tới nơi Bác nghỉ trên một gò đất đắp cao. Lăng Bác xây trên gò đất cao ấy. Phương án này có nhiều nét rất thanh cao, phong nhã Việt Nam và Á Đông.
Phương án số 13 (của một số tác giả độc lập cùng cộng tác) lấy cảm hứng từ câu “Tháp Mười đẹp nhất bông sen”… và làng Sen cũng là quê Bác.. Mô hình Lăng sẽ là một bông sen được cách điệu và được xây ở giữa hồ sen.
Phương án số 15 của Công binh cũng là một quần thể kiến trúc có khối chính là Lăng Bác, xung quanh là vườn cây. Khối chính Lăng có hình dáng một ngôi nhà 3 gian Việt Nam, có bậc tam cấp đi lên, đặc biệt phía sau Lăng có một đường thoải dốc cho xe lăn của thương binh lên được tới chỗ đặt thi hài Bác.
Phương án số 16 của (tập thể cán bộ thiết kế Tổng cục Hậu cần quân đội) là một phương án cũng độc đáo: Ở khu vực Ba Đình đắp một quả đồi (khoảng một triệu mét khối đất), xây Lăng trên quả đồi này. Trên đỉnh Lăng có thể thiết kế giống một lầu thơ. Xung quanh Lăng và quả đồi là hồ nước và cây cối. Nhiều người xem nói rằng: Đền Hùng cũng xây theo kiến trúc này. Lâu thơ còn gợi khung cảnh Bác ngồi đó làm việc và làm thơ. "… Trăng nhòm cửa sổ đòi thơ…”. Nhưng cũng nhiều người không đồng tình cho rằng lầu thơ giống Khuê Văn Các ở Văn Miếu. Đắp một quả đồi giữa lòng Hà Nội sẽ rất khó để thực hiện và cao quá, các cụ già và trẻ em lên sẽ vất vả, thêm nữa vì xúc động sẽ có nhiều người ngã giữa lưng đồi, không lên nổi hoặc xuống được, mà phải khiêng cáng thì không hay…
Ngoài những phương án cụ thể đã trưng bày, nhân dân đã góp 6.627 ý kiến nói chung về việc xây Lăng Bác, không ít người cho rằng nên kéo dài thêm thời gian cho các nhà chuyên môn và nhân dân các nơi đóng góp thêm ý kiến. Có ý kiến nhấn mạnh: Lăng dứt khoát phải quay về hướng Nam cho phù hợp với phong tục làm nhà của dân ta và cũng phù hợp với tấm lòng Bác luôn hướng về miền Nam thành đồng Tổ quốc…
Đồng bào ở các tỉnh xa không được xem triển lãm và Việt kiều ở nước ngoài không về được cũng nhiệt tâm gửi nhiều thư về tham gia ý kiến.
Đồng chí Nguyễn Trọng Hợp - bộ đội hòm thư 47 - 170 - OR cũng có thư đề nghị xây núi Bác Hồ chứ không phải Lăng. Theo ý đồng chí nên đục hẳn một quả núi thành một pho tượng Bác. Đấy sẽ là một công trình điêu khắc độc đáo, xung quanh là hồ và các công trình nghệ thuật khác…
Ông Kim Cúc, cán bộ hưu trí tại xóm 1 thị trấn Lào Cai dù đang lâm bệnh hiểm nghèo cũng viết thư về rất cảm động cũng gợi ý Lăng Bác nên hướng về phương Nam. Nơi Bác nằm nên lát gạch mầu, ghép hình năm châu bốn biển, vì thủa thanh niên Bác đã đi năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Trước cửa Lăng nên trăng hoa bất tử để nói lên sự nghiệp của Bác sống mãi với nhân dân, Tổ quốc ta…
Ông Trần Nhất Thống, cán bộ Tổng cục Thuỷ văn nghỉ hưu đã viết: Đề nghị nên phỏng theo hình ảnh hang Pắc Bó với suối Lê-nin, núi Các Mác để xây Lăng Bác, cụm tượng Bác với đồng bào, quân đội và các cháu thiếu nhi…theo ý tưởng của Bác: “Đoàn kết - Chiến đấu - Sản xuất - Học tập…”.
Bà Phùng Thị Cúc, nghệ sĩ điêu khắc nổi tiếng thế giới là Việt Kiều ở Pháp cũng gửi thư và ảnh mô hình Lăng Bác. Theo mô hình này, trùm lên hết là một thanh gươm không lưỡi. Bên trái là một em bé ôm lấy một quan tài, bên phải là em bé khác nũng nịu cụng đầu vào đó. Theo bà: Mô hình này toát lên ý tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu hoà bình và yêu trẻ thơ.
Anh Đặng Đậu, sinh viên khoa kiến trúc tại Bun-ga-ri viết thư về mô tả Lăng Đi-mi-trôp để ở nhà tham khảo…
Các bạn quốc tế cũng hết sức quan tâm đến cuộc triển lãm các mô hình Lăng Bác. Giám đốc cơ quan đại diện Thông tấn xã Nô-vô-sti (Liên Xô) tại Hà Nội viết thư xin gặp người phụ trách triển lãm Lăng để đưa tin rộng khắp về cuộc trưng cầu dân ý này, và ông cũng có một số sáng kiến xin đóng góp.
Như vậy, cuộc triển lãm mô hình Lăng Bác đã thành công như ý muốn, chủ trương vận động nhân dân tham gia thiết kế là hết sức đúng đắn, Tổng kết lại, qua những ý kiến nhận được, đa số đã chọn Phương án số 1, số 10 và số 15.
Bộ Chính trị đã được báo cáo đầy đủ về kết quả của đợt triển lãm và đánh giá công việc đã thành công rất tốt đẹp, chứng tỏ nhân dân ta vô cùng yêu quý Bác. Và cũng thêm một lần nữa, cuộc trưng cầu ý dân cũng như các triển lãm, đã minh chứng mạnh mẽ sự ủng hộ nhiệt thành và to lớn của nhân dân ta với chủ trương của Đảng lưu giữ lâu dài thi hài và xây dựng Lăng Bác. Nếu có thời gian, cuộc trưng cầu ý dân có thể sẽ được kéo dài hơn nữa để có thêm thật nhiều ý kiến tâm huyết với công trình lịch sử này. Tuy nhiên mong muốn của toàn dân sớm có Lăng để lưu giữ thi hài Bác được thật an toàn và nhân dân sớm được vào Lăng viếng Bác là đòi hỏi vô cùng chính đáng, vì thế những cuộc triển lãm, xin ý kiến nhân dân không thể kéo dài thêm.
Ba phương án 1, 10, 15 được nhiều ý kiến ủng hộ hơn cả, đã được ông Nguyễn Ngọc Chân chỉ đạo các kiến trúc sư tu chỉnh lại và tổng hợp các ý kiến đóng góp của nhân dân, rồi rất cẩn thận, một nhóm kiến trúc sư, kỹ sư của ta lại mang sang Liên Xô làm việc với Bạn.
Qua ba tuần lễ trao đổi ý kiến với các chuyên gia Liên Xô, cuối cùng bản Phương án "Thiệt kế sơ bộ” có bổ sung ý kiến của nhân dân đã được Bạn hoan nghênh, chọn lọc tiếp thu. Tuy nhiên, với kiến thức chuyên sâu Bạn vẫn bổ sung mấy điều quan trọng, như mái làm tam cấp là đẹp nhưng nên mỏng, nhẹ, thanh thoát hơn, tỷ lệ các phần ở khối chính của Lăng cần phải cân đối. Hai lễ đài ở hai bên nên có khoảng cách với các khối chính của Lăng, sẽ tạo thêm sự tôn nghiêm cho Lăng Bác… Cầu thang ở hậu sảnh lên phòng làm thuốc cần đặt ở vị trí kín đáo hơn. Buồng “đặc biệt” cần kiên cố, đề phòng khi có chiến tranh vẫn giữ được thi hài tại chỗ, chống được sự phá hoại của bom đạn và bảo đảm an toàn, không bị lũ lụt, thiên tai. Quan tài kính nơi bác yên nghỉ phải được thiết kế bằng vật liệu đặc biệt bảo đảm cho người vào viếng Bác nhìn được Bác rõ hơn và bảo đảm thi hài Bác an toàn tuyệt đối.
Tất cả những ý kiến của bạn đã được đoàn ta điện ngay về báo cáo với và được trên rất hoan nghênh. Về những thay đổi, hoặc bổ sung của đoàn ta, đều được đoàn Bạn báo cáo ngay lên Chính phủ và cũng được đồng tình nhất trí.
Sự kiện đã tới lúc chính muồi. Ngày 9 tháng 2 năm 1971, tại Mát-xcơ-va, trong một buổi lễ trang trọng, hai đồng chí thay mặt cho hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô: Đồng chí Lê Thanh Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam - Phó Thủ tướng Chính phủ và đồng chí Nô-vi-côp, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô – Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã cùng ký vào bản hiệp định về việc Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết giúp đỡ kỹ thuật cho Việt Nam dân chủ cộng hoà trong việc giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng Lăng của Người.
Thế là bước khởi đầu vô cùng quan trọng đã kết thúc tốt đẹp. Tuy nhiên, phía trước còn biết bao công việc vẫn đang chờ đợi từ phía Bạn: Bản thiết kế sơ bộ, bản thiết kế kỹ thuật, rồi hàng nghìn bảnvẽ kỹ thuật chi tiết của công trình… cùng bản kế hoạch tổng thể, để công trình có thể bắt đầu.
Ngày 31 tháng 11 năm 1971, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định chính thức thành lập Ban Phụ trách xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, gồm:
- Đồng chí Đỗ Mười - Phó Thủ tướng - Trưởng Ban.
- Đồng chí Bùi Quang Tạo - Bộ trưởng Bộ Kiến trúc - Phó Ban.
- Đồng chí Phùng Thế Tài - Phó Tổng Tham mưu trưởng - Uỷ viên.
Lực lượng chủ lực, nòng cốt xây dựng công trình là Bộ Quốc phòng và Bộ Kiến trúc.
Ngày 3 tháng 12 năm 1971 ở Hà Nội đã có cuộc hội nghị quan trọng tiến hành đợt xét duyệt chính thức bản thiết kế kỹ thuật Lăng. Một đoàn Liên Xô nữa lại được mời sang, do đồng chí Vô-đơ-chi-nhin, đại điện uỷ quyền của Tổng cục Kỹ thuật và Uỷ ban Liên lạc kinh tế đối ngoại Liên Xô dẫn đầu. Tham gia đoàn có đầy đủ các kiến truc sư, kỹ sư là tác giả của bản thiết kế kỹ thuật sẽ được đưa ra thông qua lần chót này. Phía Việt Nam tham dự cũng khá đông, gồm các đồng chí: Nguyễn Ngọc Chân - Trưởng đoàn, đồng chí Lương Soạn - Phó đoàn và một số đồng chí kiến trúc sư, kỹ sư thuộc Bộ Xây dựng và Bộ Tư lệnh Công binh. Nhiệm vụ chung của Hội nghị là góp ý bổ sung (nếu cần) trước khi đưa trình Bộ Chính trị ta chính thức phê duyệt.
Hội nghị lần này diễn ra từ ngày 03 tháng 12 năm 197l kéo dài tới gần một tháng cho tới 31 tháng 12 năm 1971 mới kết thúc. Không phải vì có nhiều vấn đề còn phải tranh luận mà do nội dung bàn thiết kế rất lớn, rất phong phú, cần phải đi vào cụ thể, chi tiết. Hai bên đã nhất trí chính thức xác nhận: Bản thiết kế kỹ thuật lần này đã dựa trên bản dự thảo nhiệm vụ thiết kế đầu tiên và những bản dự thảo sau đó của Việt Nam cùng các bản dự thảo của Liên Xô. Hai bên đã thống nhất sửa đổi, bổ sung trong bản thiết kế mới một số điều cụ thể… Liên Xô sẽ cung cấp các bản vẽ thi công cho Việt Nam trong vòng 12 tháng, cung cấp các thiết bị vật tư trong vòng 27 tháng kể từ ngày Chính phủ Việt Nam phê duyệt bản thiết kế này (cung cấp vật tư thiết bị phải mất 27 tháng có nghĩa là hơn 2 năm, bởi vì Liên Xô trang bị cho Lăng các máy móc thế hệ mới, hiện đại, nhiều máy, nhiều bộ phận phải đặt ở nhiều nước khác như Na Uy, Phần Lan, Ý, Mỹ, Nhật).
Như vậy, những nét lớn của bản quy hoạch tổng thể mới này đã xác định Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh nằm trong một quần thể các công trình lịch sử, văn hoá gồm: Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình, Phủ Chủ tịch và các công trình khu lưu niệm Bác như Bảo tàng Hồ Chí Minh và Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ. Lăng Bác là công trình chính sẽ làm trước hết cùng quảng trường (các công trình khác sẽ lần lượt làm sau). Bản thiết kế này cũng đã xác định lại lần cuối là: Lăng sẽ có hình khối với mặt bằng 47 x 34m, cao 21,65m, phần dưới xây theo kiểu bệ cao tam cấp theo phong cách cổ truyền của kiến trúc Việt Nam. Phần trên - tức phần giữa Lăng là phần chính, nhỏ hơn phần bệ tam cấp, sẽ là nơi đặt thi hài Bác. Tầng này cả 4 mặt đều có cột để tạo ra các khoảng trống nom tựa như các gian của những ngôi nhà 5 gian ở Kim Liên - Nghệ An nói riêng và mọi miền quê Việt Nam nói chung. Tầng trên cùng là mái Lăng cũng nhắc lại tam cấp, nhưng mỏng, thanh thoát hơn với các góc mái vát lên như các đao đình chùa cổ theo phong cách dân tộc.Toàn bộ khối Lăng được kết cấu bằng bê tông cốt thép và ốp đá quý cả lẫn ngoài, mang dáng vẻ một bông sen đang hé nở. Hai bên Lăng cũng sẽ xây hai lễ dài để các đại biểu ngồi dự các cuộc mít tinh lớn. Nhưng khác trước, lần này hai lễ đài ở hai cánh không xây liền với khối chính của Lăng. Như vậy sẽ tôn được vẻ đẹp trang nghiêm của Lăng mà vẫn rất hoà hợp, gắn bó trong một quần thể kiến trúc lớn vừa trang nghiêm, vừa đẹp mắt. Còn quảng trường ở trước lễ đài cũng sẽ được tôn tạo lại. Quảng trường sẽ rộng hơn, với những thiết bị hệ thống thoát nước hiện đại không để úng ngập, hệ thống chiếu sáng và âm thanh, hệ thống đường giao thông nội bộ trong khu vực Lăng sẽ được nghiên cứu lại rất chi tiết, thuận lợ cho việc đi lại. Nói chung cả khu Lăng Bác sẽ là một tổng thể công trình mang tính lịch sử, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến cha từng có ở nước ta….
Và thế là ngày 31 tháng 12 năm 1971, sau hai năm làm việc hết mình với trí tuệ, tài năng và lòng kính yêu Bác Hồ sâu nặng của tất cả các đồng chí của ta, từ lãnh đạo cao nhất tới các cán bộ, chiến sỹ, công nhân, thanh niên nam nữ, cộng với sự đóng góp nhiệt tâm của nhân dân các địa phương trong cả nước và sự phối hợp, giúp đỡ chí tình, hiệu quả của Đảng Cộng sản và Chính phủ Liên Xô qua các chuyên gia tài năng và giàu kinh nghiệm, bản “Thiết kê' kỹ thuật” chính thức đã được trình lên Chính phủ ta duyệt và quyết định cho khởi công xây dựng. Bản thiết kế 31 tháng 12 năm 1971 được coi như bó hoa tươi thắm đầu tiên, trong đó có cả những bông hoa đẹp của các Bạn Liên Xô - được chính thức dâng lên Bác với lòng tri ân vô hạn và cũng để chào mừng Việt Nam đã có thể chuẩn bị bước vào thời kỳ chính thức xây dựng Lăng Bác to lớn, hiện đại và thẩm mỹ cao.
Ban Phụ trách xây dựng Lăng hết sứcphấn chấn, đã tiến hành họp ngay sau khi có quyết định xây Lăng. Đồng chí Đỗ Mười - Phó Thủ tướng - Trưởng ban Phụ trách xây dựng Lăng cùng toàn Ban đã hạ quyết tâm sẽ sớm khởi công và khánh thành Lăng Bác. Đồng chíchỉ định một Ban Chỉ huy công trường gồm các đồng chí: Kiến trúc sư Vương Quốc Mỹ, Chỉ huy trưởng; Thượng tá Phạm Bá Đặng (Công binh), Phó Chỉ huy thứ nhất; Trung tá Lương Soạn (Công binh), Phó Chỉ huy phụ trách vật tư; đồng chí Nguyễn Nhi, Phó Chỉ huy kiêm Bí thư Đảng ủy công trường; đồng chí Nguyễn Văn Bé, Phó Chỉ huy phụ trách kỹ thuật.
Bộ trưởng Bộ Kiến trúc Bùi Quang Tạo, Phó Trưởng ban Ban Xây dựng đã giao nhiệm vụ cho Công trường 57 cùng với Công trường 75808 và các công ty, các viện kỹ thuật của Bộ khẩn trương làm công tác chuẩn bị.
Trong khi đó phía quân đội cũng triển khai rất nhiều công việc chuẩn bị rất khẩn trương, sôi nổi. Một đơn vị được thành lập mang phiên hiệu Trung đoàn 259B sẽ chuyên trách làm nhiệm vụ lắp máy. Đồng chí Nguyễn Văn Tý được quyết định làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Văn Đình Khánh làm Chính uỷ. Trung đoàn được phép tuyển chọn các cán bộ kỹ thuật, công nhân có trình độ tay nghề cao ở các nhà máy, xí nghiệp, các đươn vị trong các quân khu, quân chủng, binh chủng. Tuy nhiên rất khó tuyển chọn. Sau 4 tháng được cấp trên giúp đỡ, đơn vị mới tuyển được có 8 người. Bước sang năm mới 1972, ngày 28 tháng 2, Trung đoàn 259B chính thứcra đời, mang tên đoàn Ba Đình. Tổng số cán bộ chuyên môn kỹ thuật có tăng hơn buổi đầu nhưng cũng mới chỉ có 20 người, mà công việc thì ngay lập tức đã ngập đầu: Nghiên cứu các bản vẽ từ Liên Xô liên tục gửi sang, thống kê các công việc, bàn các giải pháp thi công, bổ sung trang thiết bị và dụng cụ, dự kiến nhân lực thi công, tiếp tục tìm kiếm cán bộ, công nhân kỹ thuật để xin bổ sung, bên cạnh lại còn phải sửa chữa doanh trại… Quá nhiều việc. Nhưng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 259B rất hăng say, bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị. Dịp ấy, ở Quảng trường Ba Đình không phải chỉ có cán bộ, chiến sỹ của Trung đoàn công binh 259B, mà còn có rất nhiều cán bộ của một số đơn vị dân sự khác cũngra nghiên cứu, bàn bạc ngay tại hiện trường. Người ta thấy có anh em công nhân Bưu điện, các chị nhân viên Công ty Công viên cùng các anh cán bộ các ngành cơ khí và cả cán bộ của các nhà máy nước, nhà máy điện… Gặp nhau, tay bắt mặt mừng, ai nấy đều hiểu họ sẽ cùng nhau hợp lực lao động không ít ngày ở nơi đây, trên công trường lịch sử này… Họ không những chỉ trò chuyện về công việc xây Lăng Bác, mà mọi người còn rất hào hứng bàn luận về những trận chiến đấu năm 1972 của ta ở miền Nam đang mở ra gần như đồng loạt từ Trị - Thiên - Huế, tới Tây Nguyên, rồi Khu 5, Khu 6 và Nam Bộ… Đâu đâu cũng thắng lớn phá được nhiều khu vực phòng ngự của Mỹ - Thiệu. Bộ đội chủ lực của ta trưởng thành rất nhanh, đã đứng vững trên các địa bàn cơ động, cả vùng rừng núi, cả giáp ranh và nhất là cả một số vùng quan trọng ở đồng bằng… Chiến thắng năm nay của ta đã làm cho báo chí thế giới nhiều tờ đã phải viết: "Công thức Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ sụp đổ".
Cũng thời gian này, qua thông báo trên đài phát thanh, qua điện đài nội bộ và cả báo chí, nhiều địa phương trong nước, cả Bắc và Nam, nhân dân đã được biết về quyết tâm xây Lăng Bác, và công việc lo lớn thiêng liêng này đã bắt đầu chuẩn bị mọi mặt, trong đó vật liệu xây dựng đang là một trong những việc được chú trọng hàng đầu. Bởi vậy, đồng bào ở các nơi cũng bắt đầu nghĩ tới chuyện kiếm tìm vật liệu để góp phần “xây nhà cho Bác" (nói theo đồng bào các dân tộc Tây Nguyên). Nơi bàn kiếm đá quý, nơi hô hào nhau tìm gỗ quý, nơi quyết phải mò cho được ngọc trai, nơi sẵn sàng xe cát vàng để xây Lăng, nơi đã rủ nhau đi soi tìm sỏi hiếm, nơi đã sớm bàn cả đến "kỳ hoa, dị thảo" để trồng hoặc bầy góp vào các vườn hoa quanh Lăng Bác. Công nhân, cán bộ các nhà máy cơ khí, các nhà máy xi măng, các công trường… và cả các nghệ nhân nổi tiếng về mộc, khảm, trạm, rèn với những tay nghề "siêu việt" cũng đã bàn nhau sẽ tình nguyện lên phục vụ Lăng Bác. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công đoàn, nông hội ở hầu khắp các tỉnh cùng cả một số đồng bào dân tộc và tôn giáo cũng như nhiều nhà trí thức, nhà khoa học đều sẵn sàng tham gia đóng góp công sức xây Lăng nếu công trường cần tới sẽ có mặt ngay. Việt kiều ở Pháp, ở Trung Hoa, ở Bỉ cũng có một số nhà khoa học hoặc kiến trúc giỏi gửi thư hoặc nhắn về: Nếu cần, bà con cũng sẽ xin tình nguyện được tham gia.
Nhưng khi cả nước đang sôi nổi để bắt tay vào chuẩn bị chuẩn bị xây Lăng Bác thì còi báo động máy bay Mỹ bỗng réo lên. Ních-xơn đã cam kết ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, từ tháng 4 năm 1972, nhưng chúng đã lật lọng. Từng còi hồi dài cuồn cuộn, dữ dội, kéo dài, đầy căm giận làm rung chuyển cả không gian và náo động cả lòng người đang yên bình trong mọi công việc hàng ngày, nhất là đang mong đợi công cuộc xây dựng Lăng Bác có thể bắt đầu.
Tại trụ sở Bộ chỉ huy Phòng không - Không quân, ngày 15 tháng 12 năm 1972, đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng giờ này đã kịp thời có mặt để kiểm tra và động viên Quân chủng. Ông nghiêm trang nói với mọi người:
- Bác luôn luôn có những dự báo thiên tài: Năm 1941 từ Pắc Bó, Bác đã dự báo cách mạng có khả năng sẽ nổ ra vào năm 1945. Kháng chiến chống Pháp, Bác cũng đã nói trước: Điện Biên Phủ bị tiêu diệt, Pháp sẽ hết lực... Rồi tới tháng 12 năm 1967, rất sớm, nghĩa là từ 5 năm trước đây, Bác đã nói với tôi - khi ấy đang là Tư lệnh ở đây, rằng: "Mỹ thế nào cũng đem B52 ra đánh cả Hà Nội. Rồi có thua nó mới chịu thua trên bầu trời Hà Nội. Ta phải chuẩn bị…". Nay thì coi! Quả là chúng nó đã ra Hà Nội...
Mọi người đều gật đầu trầm trồ:
- Bác quả như thần...
Hội nghị Pa-ri lại bế tắc vì những đòi hỏi ngang ngược của Mỹ. Ních-xơn đã hé lộ muốn ra tay "Đánh đòn cuối cùng". Phái đoàn ngoại giao của ta phần đông đã được lệnh cùng đồng chí Lê Đức Thọ trở về nước.
Mỹ đã ném bom trở lại Hải Phòng. Hà Nội phát lệnh sơ tán. Trên các cửa ô Hà Nội đã tái diễn những cảnh như trước đây: Từng nhóm, từng đoàn người, chủ yếu vẫn là phụ nữ và con trẻ, nối tiếp nhau tạm ra đi, về các làng quê. Trong khi ấy, đi ngược chiều lại với những đoàn, những nhóm người tất tả ấy là rất nhiều đơn vị cao xạ lớn, nhỏ đầy bụi đường trường, và cả những đơn vị tên lửa với những cành lá ngụy trang nhảy múa, những người chiến sỹ trẻ măng mặt cháy nắng như chim đậu trên xe, bám cả bên những quả đạn đồ sộ dài và nhọn hoắt. Từ nhiều hướng, nhiều đường các đơn vị phòng không mạnh mẽ nối tiếp nhâu ầm ầm tiến về phía Hà Nội, bụi cuốn đỏ đường, đỏ trời. Lực lượng phòng không lần này rõ ràng được tập trung về đây nhiều và hùng mạnh hơn hẳn những khi trước. Dường như ai ai cũng thấy được lần này chắc chắn là sẽ có đánh lớn, thậm chí rất lớn và rất ác liệt trên bầu trời Hà Nội...
Tuy nhiên, trong những ngày đầu tháng Chạp rất khẩn trương này, không phải chỉ có nhân dân và một số cơ quan sơ tán ra khỏi thành phố mà theo lệnh trên: Cả công trường chuẩn bị xây Lăng Bác cũng tạm ngừng. Các lực lượng thanh niên, công nhân của nhiều cơ quan, xí nghiệp, nhà máy của Hà Nội, và lực lượng quân đội (chủ yếu là công binh) vừa mới được tập trung trở lại, nay cũng phải tạm phân tán trở về các địa phương hoặc đơn vị cũ. Chỉ còn một lực lượng nhỏ ở lại để bảo quản những vật tư đã sớm đưa về được một phần và làm lòng cốt để rồi khi có cơ hội sẽ lại cùng nhau xây dựng công trình thế kỷ này.
Hầu hết anh chị em đều cảm thấy như bị một cú sốc lớn. Trong những ngày bắt đầu phải tạm sơ tán ấy, trên Quảng trường Ba Đình đã luôn diễn ra những cuộc chia tay bạn bè của nhiều anh chị em công nhân, và cả cán bộ của nhiều đơn vị, nhiều địa phương như thợ sắt Hải Phòng, thợ gỗ Hà Tây (cũ), thợ xây Hà Bắc (cũ), thợ đá Thanh Hoá... Tuy mới được về đây, mới quen biết nhưng có người đã thân nhau, giờ đây phải ngừng công việc để trở về chốn cũ, ai nấy đều không khỏi buồn rầu. Tất cả chỉ còn biết hứa hẹn: Sẽ sớm gặp lại và cầu xin Bác anh minh hãy phù hộ cho cuộc chiến này chóng thắng lợi để cho anh chị em bạn bè sẽ sớm lại được tái ngộ, cùng nhau xây "Ngôi nhà của Bác" như đang mơ ước, đang hy vọng. Nhưng cũng còn có cả những lời căm giận như những lời nguyền rủa: "Thằng Mỹ độc ác, nó sẽ chết!".
Ngày 16 tháng 4 năm 1972, Mỹ ném bom trở lại miền Bắc. Mọi công việc sơ tán của thành phố, trong đó có bộ phận chuẩn bị ban đầu của công trường 75808 đã được hoàn thành về cơ bản.
Cũng trong ngày hôm đó, trinh sát chiến lược của ca cấp báo về: Ních- xơn đã ra lệnh thả thuỷ lôi phong toả cảng Hải Phòng và các cảng trong Khu 4 nhằm bịt chặt mọi sự chi viện từ đường biển vào ta.
Ngày 18 tháng 12 năm 1972, lệnh báo động đỏ đã được phát ra trên toàn cơ quan Tổng hành dinh và tất cả các đơn vị trực chiến, các đơn vị dân quân và bộ đội, không quân và cao xạ. Cả Hà Nội căng lên trong tinh thần quyết chiến.
19 giờ 15 phút hôm ấy, khi trời đã tối sập, một tiếng nổ lớn bỗng gầm lên. Cả bầu trời Hà Nội bật đỏ phừng. Cây cối, nhà cửa, cùng những gương mặt với những cặp mắt như bốc lửa trong tất cả các vị trí tác chiến, các giao thông hao, các hầm trú ẩn. Quả tên lửa đầu tiên của Trung Đoàn Ba Bể đã mở đầu cho "Trận Điện Biên phủ trên không” anh hùng. Tiếp đó lại một quả nữa của đội 77 Trung đoàn 257 - Sư đoàn tên lửa 361. Quả đạn tuyệt vời ấy đã bắn trung ngay một chiếc B52 bắt đầu lao vào bầu trời Hà Nội. Một quả cầu lửa đỏ bùng lên kinh hồn. Lập tức muôn ngàn tiếng reo hò từ dưới tất cả hầm hố, các giao thông hào, các trận địa lớn nhỏ, các sân bay... cùng trào lên như sóng biển, như sấm ran khắp nơi.
Trên tất cả các đài quan sát cũng như vỡ oà theo với những tiếng reo như thét lên.
Điện mừng từ các nơi, các hướng báo về như mưa.
Trận đánh thắng B52 Mỹ trên bầu trời Hà Nội đã mở đầu trong những phút không sao quên được. Nhưng không phải chỉ Hà Nội, mà cả Hải Phòng cũng vậy, trận mở đầu đánh B52 cũng rực lửa, oai hùng và vô cùng xúc động như thế...
Thế rồi qua 12 ngày đêm máu lửa, Ních-xơn đã như "dốc túi". Chiến dịch không quân lớn nhất thời đại của Mỹ với chủ yếu là B52 ném bom rải thảm, chiến dịch mang tên Linebacker II đã hoàn toàn thất bại, với thiệt hại quá lớn: 34 máy bay B52, 5 máy bay F111, cùng hàng chục chiếc cường kích các loại: Thần sấm, Con ma, Giặc nhà trời, Thanh bảo kiếm... đã bị tiêu diệt. Không chịu nổi nữa, Ních-xơn đã phải hạ lệnh chấm dứt chiến dịch 12 ngày đêm tội ác ấy. Rồi chỉ một, hai ngày sau đó không phải chỉ chấm dứt ném bom, Ních-xơn còn phải chủ động gửi điện cho ta yêu cầu nối lại Hội nghi Pa- ri. Bức điện ấy được gửi đi trong khi báo chí cả thế giới còn đang xúc động, tiếp tục rầm rộ đưa tin thảm hại của Ních-xơn với cái dịch giội bom tội ác ấy trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.
Ngay sáng hôm sau, khi cái chiến dịch B52 chấm dứt, rất nhiều người dân Hà Nội đi sơ tán đã mau chân hồi cư. Trên đường trở về mọi người đã được tận mắt thấy những xác máy bay. Không ít làng xóm, thị trấn tan hoang ... Vào tới thành phố, người ta cũng đã nhìn rõ một số nơi bị bom đạn khói còn nghi ngút, lửa còn lùng bùng nơi này nơi khác như Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai... Máu vẫn còn đỏ trên một số bức tường, trên một số khu chợ hoặc đường phố... Nhưng người ta cũng thấy được tận mắt mình, thậm chí được sờ mó hẳn vào những mảng - chứ không chỉ là mảnh vỡ - của các xác máy bay Mỹ bị bắn hạ. Có cái rơi ngay trên đường phố Hà Nội, có cái đâm ngay xuống Hồ Trúc Bạch... Người sơ tán về sớm còn thấy được tận mắt ngay trên các làng quê ở vành nhiều giặc lái bị bắt sống vẫn còn nguyên những bộ đồ bay kỳ dị nhưng đều đã tơi tả, lấm lem hoặc rách nát. Không ít tên bị thương trên mặt, trên đầu quấn băng trắng lốp do quân, dân ta cấp cứu khi bắt được chúng. Đứa nằm rên la trên cáng, đứa được dìu đi tập tễnh với những cặp mắt hoang mang, sợ hãi... Quang cảnh Hà Nội trong suốt ngày hôm ấy, ngày 1 tháng 1 năm 1973 và cả mấy ngày sau vẫn còn ngổn ngang. Người đi xem luôn luôn cảm thấy những ngọn trào tình cảm cuộn lên làm chảy cả nước mắt trước những đống đổ nát, những chết chóc đau thương của dân mình. Nhưng khi tận mắt thấy, tận tay sờ vào những mảnh pháo đài bay và Thần sấm, Con ma... tan tác trên các cánh đồng ngoại ô và ngay trên các đường phố Hà Nội cũng lại muốn khóc, nhưng khi ấy khóc lên là bởi quá tự hào, quá kiêu hãnh vì dân tộc, vì đất nước mình quá anh dũng và vô cùng bất khuất...
Dường như suốt mấy ngày hôm sau không ít người Hà Nội vẫn còn rủ nhau đi xem máy bay Mỹ bị bắn rơi, nhất là B52. Tuy nhiên không thể đi hết mọi nơi, người ta thường đi tới những nơi gọi là trọng điểm. Một trong những nơi đông người tới xem nhất là cả một khúc đuôi máy bay Mỹ rơi cắm thẳng đứng ngay giữa lòng hồ của làng Hữu Tiệp - Ngọc Hà. Còn thêm mấy nơi nữa: Một mảng B52 rơi ngay bên một chuồng cọp cũ ở vườn Bách Thảo và một mảng cường kích khác rơi tênh hênh ở ngay giữa sân Sở Xe điện Thuỵ Khuê... Đông như đi xem hội. Có cả một số văn nghệ sĩ và nhà báo cũng đi, trong đó có nhóm các ông nhà văn Nguyên Tuân, kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp và nhà báo Thép Mới. Nhóm này đến bên mảng đuôi máy bay Mỹ như chỏng thẳng lên, cắm ngay giữa hồ trước đình làng Hữu Tiệp - Ngọc hà. Ba ông bạn cứ say mê ngắm đi ngắm lại mãi. Ngắm cả mấy vườn hoa cục vẫn đang nở vàng rất đẹp quanh đó. Cúc vàng Ngọc Hà - Hữu Tiệp đã nổi tiếng từ lâu. Nay những vườn cúc vẫn tươi nguyên, thắm vàng y như không phải vừa trải quả một đêm B52 tàn bạo. Ông Tuân cứ theo nheo mắt hết ngắm nhìn mảng đuôi khá lớn của chiếc máy bay Mỹ, lại ngắm những vườn cúc ở ngay kề bên đó. Rồi hóm hỉnh ông nói với hai bạn:
- Này, hai ông ạ! Cái thằng Mỹ nó thế mà cũng biết điều ra phết. Nó đã tự dựng "Tượng đài đại bại" của nó ở giữa cái hồ này, đỡ cho ta khỏi phải dựng tượng đồng bia đá về chiến thắng ở đây nữa. Thế này quá đẹp rồi phải không?
Nói xong, ông nghiêm chỉnh chuyển sang ý khác:
- Mà này, rồi có lẽ bọn ta phải đề nghị lên Bộ Chính trị và Bộ Tổng tư lệnh cho gửi ít nhất là một vài chậu cúc Ngọc Hà ở ngay chỗ “thằng Ních-xơn” bị bắn gục để báo cáo với Bác. Bác là chính là tác giả của những thắng lợi này từ cội nguồn mà!...
Hai ông Hoàng Như Tiếp và Thép Mới không khỏi ngạc nhiên và thú vị về sáng kiến bất ngờ rất hay ấy của ông Nguyễn Tuân. Ông Tuân lại say sưa tiếp:
- Mình sẽ nhờ ông Xuyên Thuỷ chuyển giúp đề nghị này. Chắc sẽ được hoan nghênh. Xưa kia, 200 năm trước, đại thắng oanh liệt 20 vạn quân Thanh trên chính kinh thành này, Nguyễn Huệ, vị Hoàng đế anh hùng áo vải ấy, cũng đã cho quân đem ngay một cành đào Nhật Tân vào tận Phú Xuân để báo tiệp với Ngọc Hân công chúa về chiến thắng vĩ đại Thăng Long! Ta bây giờ cũng phải thế, phải cấp báo tiệp với Bác tối cao của mình chứ!
Nhưng chẳng phải chỉ có mấy nhà văn, nhà báo đã sớm nghĩ ngay tới Bác lúc này, mà Bộ Chính trị, Trung ương và đông đảo nhân dân ngay từ ngày hôm ấy cũng đã nghĩ rất nhiều tới Bác. Và hầu như tất cả mọi người cũng đều rất hào hứng nghĩ ngay tới việc tiếp tục xây Lăng "Đúng rồi, tiếp tục xây Lăng Bác được rồi đấy!". Đâu đâu cũng thấy câu nói như thế hoặc tương tự như thế với tất cả niềm vui và tự hào.
Vui quá, nhiều toán lại rủ nhau trở ra ngoại thành xem tiếp máy bay mà lúc hồi cư về vội quá chưa xem được kỹ. Thế là lại xe đạp, xe máy đèo nhau túa ra các hướng y như trẩy hội mùa xuân. Vừa đi lại vừa nao nức phỏng đoán thế nào cũng sẽ tiếp tục công việc xây Lăng Bác...
Đã đại thắng B52 Mỹ, Tết cổ truyền Quý Sửu lại sắp đến nơi, Hà Nội đã vui càng thêm vui, đã tưng bừng càng thêm tưng bừng, dù cho những vết đạn bom vẫn còn đó thời gian và con người chưa kịp xoá hết...
*
* *
Đúng như mong ước của dân, chỉ hơn ba tuần sau trận đại thắng B52, các cán bộ trong Ban Phụ trách xây dựng Lăng Bác và cả Ban Chỉ huy công trường 75808 (ký hiệu công trường xây Lăng Bác có từ 1971) đã nhận được giấy triệu tập họp của Phó Thủ tướng Đỗ Mười - người được Bộ Chính trị giao trách nhiệm kiêm Trưởng ban Phụ trách xây dựng Lăng Bác - Giấy mời họp vào buổi tối ngày 29 tháng 1 năm 1973. Tất cả các thành viên được mời họp đều rất mừng và biết ngay là việc gì rồi. Tối hôm đó dù rét khá đậm nhưng trong lòng người ai ai cũng rất ấm. Tất cả tề tựu quanh chiếc bàn họp lớn, dưới ánh đèn sáng choang. Đồng chí Đỗ Mười với gương mặt rất tươi vui, với giọng nói sang sảng, chính thức truyền đạt lại quyết định của Bộ Chính trị về việc tiếp tục xây dựng Lăng Bác. Rồi đồng chí truyền đạt tiếp những chỉ thị cụ thể của đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị - người đã được phân công trực tiếp chỉ đạo công trình xây Lăng. Đồng chí Trường Chinh, nhà lãnh đạo sắc sảo và cũng vô cùng nghiêm cách, cẩn trọng ấy vẫn nhắc và nhấn mạnh lại ý nghĩa rất to lớn của công trình Lăng Bác: “ Đây sẽ là công trình kiến trúc vĩ đại mà trong lịch sử xây dựng của Việt Nam chưa từng có, đòi hỏi chất lượng rất cao, sử dụng nhiều loại vật liệu rất quý hiếm và mới... Lăng Bác sẽ được xây dựng không phải chỉ bằng bàn tay, khối óc của những người trực tiếp tham gia xây dựng mà còn bằng cả trái tim và công sức đóng góp của toàn dân tộc... Công trình này phải được hoàn thành với thời gian sớm nhất. Các chuyên gia hàng đầu tính toán mọi mặt về cả chính trị, cả khoa học, kỹ thuật trình lên, đã được Bộ Chính trị duyệt...".
Các nội dung đã quan trọng lại được truyền đạt một cách hăng say và sôi nổi của đồng chí Phó Thủ tướng kiêm Trưởng ban Phụ trách xây dựng Lăng, làm mọi người càng thêm phấn chấn.
Phổ biến xong mọi việc, đồng chí Phó Thủ tướng lại vui vẻ vừa như động viên vừa như ra lệnh: "Các đồng chí đã rõ cả rồi đấy, phải hết sức quan trọng và cũng hết sức phải khẩn trương.
Mọi người cùng tươi cười thể hiện sự đồng tình và quyết tâm của mình, rồi cùng đi vào bàn thảo những nội dung cụ thể phải tiến hành ngay trước mắt và lịch làm việc tổng quát. Tuy rất vui, rất phấn chấn, nhưng trong thâm tâm không phải không có người vẫn có phần thầm lo: Thời gian 2 năm là căng! Không hiểu dốc sức dốc của ra, rồi có kịp không?... Không riêng các uỷ viên mà cả đồng chí Tổng Tham mưu phó quân đội Phùng Thế Tài và đồng chí Bộ trưởng Bộ Kiến trúc Bùi Quang Tạo cũng ít nhiều cùng tâm trạng như vậy.
Tuy vậy không khí bao trùm vẫn là sự hào hứng và niềm tin tưởng. Công việc quan trọng đầu tiên mà tất cả cùng nhất trí là phải tiếp tục lo tăng thêm nhân lực và "chạy" vật tư. Thật vậy, nhân lực và vật liệu phải có đủ hoặc ít ra là tương đối đủ rồi mới có thể nói tới xây, tới lắp máy... Muôn ngàn công việc lớn nhỏ đang ở phí trước. Ai cũng biết: Trước trận B52 ta cũng đã tập họp được một số nhân lực tốt, kể cả vật liệu, nhưng nay dù có gọi lại được đủ anh chị em cán bộ và công nhân ấy, cũng vẫn còn phải tiếp tục tuyển thêm nữa mới chắc chắn bảo đảm được công việc...
Trước hết là nhân lực! Trong đó nhân lực có kỹ thuật là rất quan trọng. Nếu cần về số lượng thì như trước trận B52 ta đã biết: Chỉ cần hô một tiếng là hàng triệu thanh niên và công nhân sẽ lập tức ghi tên tình nguyện ngay. Nhưng lao động kỹ thuật cần thiết cho một công trình rất lớn và rất hiện đại như Lăng Bác thì đợt tuyển người vừa qua đã thấy rất khó khăn, ngay cả trong quân đội, dù có là công bình đơn vị kỹ thuật. Bên Bộ Kiến trúc nơi tập trung nhiều cán bộ, công nhân kỹ thuật xây dựng nhất, mà tình hình chung cũng đang khó.
Nhưng rồi bàn cũng ra cách: Sẽ xin phép Bộ Chính trị và Chính phủ cho phép cả bên quân đội cả bên Bộ Kiến trúc được đi tuyển mộ thêm, mà lần này không chỉ quanh Hà Nội mà rộng cả cả các tỉnh, đâu có cán bộ, công nhân kỹ thuật có thể tuyển là tuyển luôn. Để cho những người được tuyển phấn khởi, yên tâm làm việc, phía chủ quản cũng dễ quản lý, bên quân đội có thể cho những người mới được tuyển chuyển thành quân nhân. Bên Bộ Kiến trúc cũng thế, cho họ vào biên chế của ngành Xây dựng luôn.
Cụ thể, tất nhiên về nhân sự chủ yếu là lấy thêm ở miền Bắc là rõ rồi. Nhưng riêng về vật liệu xây dựng dù cũng trông cậy ở ngoài Bắc những cũng cần có cả sự đóng góp của đồng bào miền Nam. Trong chiến trường, gỗ, đá quý có nhiều. Chắc chắn khi biết ngoài này bắt đầu xây dựng Lăng Bác, trong đó không cần đợi yêu cầu, bà con sẽ chủ động tìm ngay mọi cách vận chuyển vật liệu ra bằng mọi giá. Tấm lòng đồng bào miền Nam với Bác quá lớn lao, sâu nặng. Còn máy móc cho Lăng - phần cực kỳ quan trọng - tất nhiên chưa thể bàn kỹ lúc này. Phần này rất lớn, một mình ta không thể lo được hết, mà sẽ phải trông cậy khá nhiều - nếu không muốn nói là chủ yếu - ở sự viện trợ hữu nghị của Liên Xô, người Bạn lớn vẫn luôn luôn hết lòng với ta. Tuy nhiên cũng biết không phải thứ gì Bạn cũng có; có cái Bạn sản xuất được, có cái Bạn phải đặt làm ở những nước tư bản. Như vậy có thể thấy, bắt đầu khởi công xây Lăng, cần thiết trước hết và chủ yếu vẫn là nhân lực kỹ thuật và vật tư. Rồi sau đó sẽ còn phải bàn nhiều và lo dần...
Khuya, cuộc họp mới kết thúc với những cái bắt tay rất chặt như để thay thế cho những lời hứa hẹn cam kết, và cũng để bày tỏ niềm tin to lớn, mạnh mẽ...
"Không được chậm trễ! Không được nghỉ nhé!" Nụ cười lại nở rộng, đồng chí Đỗ Mười lại sang sảng đứng trên thềm vui vẻ nói theo mọi người đang khẩn trương ra về trong cái rét diêu diêu cuối năm. Nghe nhắc lại câu nói ấy, dù không ra là mệnh lệnh, cũng không chỉ là lời động viên, nhưng cũng thấy vui ở cái ý, cái tình, mọi người cùng ngoái đầu lại cười theo. Sự đồng cảm làm ấm lòng mọi người.
Mỹ thua quá đau, đã phải chịu ký hiệp định Pa-ri theo những điều khoản của ta, trong đó một điều cơ bản và quan trọng bậc nhất là Mỹ phải nhận rút hết, rút toàn bộ binh lực ra khỏi miền Nam, trong khi đó các lực lượng chiến đấu của ta vẫn ở nguyên như cũ trên chiến trường. Ai ai cũng có thể thấy rõ đây là một thắng lợi vĩ đại. Vậy hoà bình chắc chắn là sẽ lâu dài, trước hết trên miền Bắc, tất nhiên thắng lợi toàn bộ trên cả nước cũng rõ ràng cũng không còn quá xa nữa, vì Mỹ thua đã phải "cút", Ngụy rồi cũng sẽ phải đổ. "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào" - Câu thơ của Bác là những lời tiên tri.
Mùa đông đã qua đi. Giờ đây đã là tháng 3 năm 1973. Nắng mới bừng lên, sáng trời ấm đất, ấm cả lòng người. Quang cảnh Quảng trường Ba Đình đã trở lại nhộn nhịp, xem ra còn đông vui hơn trước nhiều. Bây giờ ngày nào cũng có người: Cán bộ, công nhân, bộ đội công binh tới đo đạc, tính toán. Hơn thế nữa, còn liên tục có những nhóm, những đoàn người áo quần lao động kéo tới làm lán, làm nều cho công nhân ở quanh khu vực để đồ đạc và dụng cụ lao động... Không những thế còn có nhóm dựng cả những căn nhà, dù chỉ là tạm bằng tôn, gỗ, nứa lá ở phía sau quảng trường, sau Phủ Chủ tịch và cả bên Ngọc Hà để đón anh em công nhân các nơi sẽ được điều về xây Lăng.
Trong những ngày này, đồng chí Đỗ Mười đã nhận được báo cáo của cả hai phía quân đội và Bộ Kiến trúc về việc tuyển thâm nhân lực. Phía quân đội, công binh được phân công chủ yếu lo phần lắp máy trong Lăng đã được Bộ Quốc phòng cho phép được đi các quân khu, quân binh chủng tuyển thêm cán bộ, chiến sỹ có tay nghề. Sau hai tháng tuyển chọn, dù được các đơn vị, các chiến sỹ vô cùng nhiệt tâm hưởng ứng, nhưng cũng có khó khăn. vì chọn toàn người có kỹ thuật nên lúc đầu vẫn chưa thể đủ quân số yêu cầu. Vì vậy, phải mở một đợt tuyển chọn thứ hai, tới nay mới có thể mới tạm gọi là "hòm hòm". Quân khu 4 đã tổ chức cho số anh em này về tận Kim Liên quê Bác dâng hương rồi mới ra Hà Nội nhận nhiệm vụ. Quân khu Việt Bắc cũng đã tổ chức cho anh em tới Thái Nguyên thăm Bảo tàng Cách mạng và dâng hương lên Bác rồi mới về Thủ Đô. Phía Bộ Kiến trúc được phân công chuyên trách chủ yếu phần xây dựng cũng đi nhiều tỉnh để tuyển thêm thợ và cán bộ chuyên môn. Nhưng cũng giống như bên quân đội: Người có tinh thần hăng hái thì có thừa, nhưng tuyển thợ có tay nghề, dù chỉ là xây cũng khó. Tuy nhiên, cũng đã tuyển được khá: 1.200 người của 26 tỉnh thành và các Bộ, ngành về tham gia xây dựng Lăng.
Về nhân lực như vậy dẫu sao cũng là vui rồi, về mặt kiếm tìm vật liệu xây dựng cũng nhiều tin đáng mừng. Ai cũng biết một trong những thứ quan trọng là cát xây dựng. Lúc đầu hầu hết anh em trong giới xây dựng đều nói: Cát xây dựng ở sông Lô là tốt nhất. Bộ Kiến trúc đã định tập trung nhân lực cho lên hướng đó khai thác ngay. Nhưng trước công việc xây Lăng Bác to lớn và thiêng liêng, có nhiều người, nhiều nơi đã sốt sắng báo về: Cát xây dựng tốt nhất là cát vàng Kim Bôi. Sở dĩ từ bao năm nay ai ai cũng chỉ biết tới cát sông Lô là do Pháp ngày xưa bảo cát ở đó tốt hơn cả nên cứ tin như thế. Bây giờ khác rồi, ta đã có nhiều người được ăn học cao, có trình độ nghiên cứu sâu đã thí nghiệm và phát hiện ra cát Kim Bôi còn tốt gấp nhiều lần cát sông Lô. Để xác minh, Bộ Kiến trúc đã báo cáo lên Ban Phụ trách xây dựng Lăng rồi cử ngay một nhóm cán bộ chuyên môn giỏi về thẳng Kim Bôi - Hoà Bình trực tiếp khảo sát rồi đem mẫu về Hà Nội xem thực hư ra sao... Sau khi sửa dụng những phương tiện hiện đại và các loại hoá chất cùng làm thí nghiệm, rồi tham khảo cả chuyên gia Liên Xô chuyên về vật liệu xây dựng, anh em mừng rõ báo cáo: Cát Kim Bôi đúng là cát vàng thực. Nắm trên tay mở ra, cát trôi xuống không còn dính lại một hạt, hạt lại rát đều, rất sạch, rất rắn, vốn từ cuội, sỏi ngàn năm tan vụn ra, nhỏ dần mà thành cát, không có pha bất cứ một tạp chất nào... Thế là được phép trên và chính quyền địa phương ủng hộ, anh em công nhân kiến trúc cùng anh chị em thanh niên địa phương đã hợp lực nô nức khai thác. Nam thanh niên ngụp lặn xúc cát dưới lòng con sông nhỏ đổ lên những con thuyền neo ở bến. Các cô gái trên bờ xúc lên đổ thành từng đống cao ở suốt dọc bờ sông. Rồi xe tải tấp nập liên hồi tới bốc chuyển ra Hà Nội hoặc về các nhà máy. Khúc sông nhỏ của huyện Kim Bôi - Hòa Bình xưa nay vốn hoang vắng, bỗng trở thành một công trường khai thác cát tưng bừng, náo nhiệt.
Niềm vui này đã lớn nhưng còn như được nhân đôi do một sự việc khác liền ngay sau đó: Ấy là khi đó nhà máy Xi măng Hải Phòng còn bị máy bay Mỹ bắn phá tới hàng trăm lần qua nhiều năm nên đã hư hỏng một phần. Nay chắc chắn miền Bắc đã có hoà bình, cần chấn hưng lại nhà máy, hơn nữa đang mong có sản phẩm tốt để xây Lăng Bác nên nhà máy quyết chí tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm để sản xuất ra một thứ xi măng tốt nhất - xi măng đặc biệt.
Gần như cùng dịp ấy, tỉnh Thái Nguyên cũng đưa lên Ba Đình thêm một loại cát xây dựng cũng được ưa chuộng từ lâu: Đó là cát Thanh Xuyên - Thái Nguyên. Nếu như cát Kim Bôi vàng óng, sạch và không tạp chất, thì cát Thanh Xuyên lại trắng gần như đường kính. Chất lượng cát Thanh Xuyên cũng đã được kiểm nghiệm không thua kém cát Kim Bôi nhiều lắm, nên được chọn để sản xuất bê tông cường độ cao xây Lăng Bác.
Về đã xây dựng, cũng đã có báo cáo về đá granít xám, trắng ở mỏ Hoàng Thi - Thác Bà - Yên Bái rất tốt nên được chọn làm đá bê tông. Đá cuội ở Sơn Dương, Chiên Hoá - Tuyên Quang cũng rất đẹp, rất rắn. Còn cả đá nhồi - Thanh Hoá nữa, cũng đã nổi tiếng từ lâu. Đá nhồi màu xanh xám. Vua Chúa nhà Hồ, nhà Lê xưa đã dùng đá nhồi để xây lâu đài, thành quách. Thanh Hoá còn có cả đá trắng ở núi Lở, chất lượng không kém đá trắng quý hiếm của nước Ý. Cả đá vàng, đá đỏ ở Cẩm Vân nữa. Hà Tây (cũ) thì có đá cẩm thạch vân hoa rất đẹp. Cao Bằng có đá ngọc màu mận chín, vừa đẹp vừa quý. Vĩnh Linh cũng có đá mun màu đen rất sang. Sơn La có đá đèo chẹn xanh mơ khá quyến rũ. Nam Định có đá phú nhoi màu vàng cũng hấp dẫn. Còn Điện Biên Phủ - địa danh đã nổi tiếng toàn cầu cũng có đá granít rắn gần như đá hoa cương... Tóm lại không thiếu đá quý để xây Lăng Bác...
Ở vòng ngoài thì thế, vòng trong - Hà Nội, Bộ Kiến trúc và Ban Chỉ huy công trường 75808 cũng được sự phối hợp, giúp đỡ rất nhiệt tâm của các Bộ khác như Giao thông vận tải, Cơ khí luyện kim... đã huy động, tập trung được một số thiết bị cơ khí cần thiết như cần cẩu, xe tải, xe ben, máy nổ, máy xúc, búa máy, máy cưa, máy xẻ... để sẵn sàng phục vụ, dù toàn đồ cũ, đồ cổ, nhưng có còn hơn không. Đồng thời, cũng đã sớm nhận được những xúc, những cây gỗ quý như: Lim xanh, trắc, chò, sưa, táu... từ Việt Bắc, Đông Bắc, Trung Du và Khu 4 gửi về.
Không khí chuẩn bị nhân lực, vật tư ở các địa phương ngoài Bắc đang rất khẩn trương. Bộ Chính trị, Chính phủ được Ban Phụ trách xây dựng Lăng báo cáo, rất hài lòng. Vui và cảm động nữa là Đảng và Chính phủ cũng luôn luôn nhận được tin của nhiều địa phương và các chiến trường trong Nam từ Trị Thiên tới Liên Khu 5, Khu 6 qua Tây Nguyên, vào tới miền Đông, miền Tây Nam Bộ những bức thư và những bức điện gần như cùng chung một ý gửi ra: Được biết Trung ương đã có quyết định tiếp tục xây Lăng Bác, trong này tất cả bà con cô bác, quân và dân trong chiến trường đều vô cùng vui mừng. Dù bom đạn của Thiệu vẫn rất các liệt, thậm chí nay còn điên cuồng hơn, chúng đánh phá các cơ sở của ta, lấn chiến các vùng giải phóng dữ dội, quân dân ta đã quyết chiến đấu vừa đánh bại nốt tên hung ác này vừa dành thời gian để kiếm tìm và gửi ra gỗ quý, đá quý để góp phần xây "Ngôi nhà" của Bác Hồ. Đã có nơi nêu khẩu hiệu: "Tìm được gỗ hoặc đá quý gửi ra xây Lăng cũng coi diệt được giặc lập công dâng Bác". Nay có nơi báo cho biết đã sớm tìm được gỗ quý hoặc đá quý rồi, đang tìm cách để chuyển ra, dù cho bom đạn địch rất ác liệt và núi cao, sông lớn trung trùng. Nhưng chắc chắn sẽ có gỗ và đá quý đưa ra để xây Lăng Bác.
Mỗi lần nhận được những bức điện như thế, đồng chí Lê Duẩn đều xúc động đưa cho hai đồng chí Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân (hai thư ký của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng) rồi nói: "Các anh xem đi! Trong khói lửa, mà tấm lòng của đồng bào ruột thịt của chúng ta với Bác như thế đó...".
Tới tháng 5 năm 1973, Thiệu càng điên cuồng chống phá ta. Bộ Chính trị đã quyết định mời các đồng chí lãnh đạo và cả các tướng lĩnh chiến trường miền Nam ra họp, từ đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Chu Huy Mân... để trao đổi và thống nhất đánh giá, nhận định về tình hình miền Nam từ sau Hội nghị Pa-ri tới nay, và bàn các đối sách tốt nhất. Cuộc họp cũng để chuản bị cho Hội nghị Trung ương 21 rất quan trọng dự định sẽ họp vào tháng 7 năm 1973 sắp tới, nhằm tổng kết cả giai đoạn 18 năm chống Mỹ và đưa ra phương hướng chỉ đạo cơ bản cho thời kỳ mới, quyết đánh bại hoàn toàn ngụy quyền tay sai Mỹ, hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hội nghị Trung ương 21 mở rộng cũng sẽ bàn và quyết định tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thành xây dựng Lăng Bác dù vật tư thiết bị vẫn còn thiếu nhiều nhưng sẽ phải gắng khắc phục dần dần.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo quan trọng này, chính thức ra quyết định cho Ban Phụ trách xây dựng Lăng: Ngày 02 tháng 9 năm 1973 sẽ chính thức khởi công xây Lăng Bác. Ngày 02 tháng 9 năm 1975 sẽ chính thức khánh thành. Xây Lăng Bác và cải tạo, mở rộng Quảng trường Ba Đình cùng làm một thời gian.
Trên cơ sở quyết tâm lớn và chỉ thị ấy, đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó Thủ tướng đã ngay sau đó gửi tiếp thư sang Liên Xô, thông báo Việt Nam đã quyết định tiếp tục mọi công việc xây Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thông báo cụ thể cả ngày khởi công cùng ngày hoàn thành. Thư cũng chính thức nhắc lại đề nghị Liên Xô nối lại viện trợ, đề nghị Bạn gửi ngay sang cho các thiết bị vật tư như đã thoả thuận trước đây, đồng thời cũng yêu cầu tiếp tục cử chuyên gia thay nhau sang Việt Nam giúp xây Lăng Bác cho đến khi hoàn thành.
Thư gửi đi đã khá lâu, quá thời hạn phúc đáp thường có như trước đây.
Các đồng chí lãnh đạo của ta phán đoán: Hẳn Bạn có khó khăn nào đó, chứ tình hữu nghị hai bên là quá tốt. Còn nhớ năm 1970, khi mới có chủ trương xây Lăng Bác, ta cử đại biểu sang Liên Xô đề nghị giúp đỡ. Bạn đã hứa hết lòng. Đồng chí Brê-giơ-nép - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô sau đó còn có thư gửi Đảng ta (năm 1970), trong thư có những lời rất tốt đẹp, chí tình "... Chính phủ Liên Xô đã có chỉ thị giúp đỡ về mặt kỹ thuật trên những vấn đề cụ thể với nước Việt Nam Dân chủ công hoà trong việc thực hiện những công việc cần thiết.
Thực hiện sứ mạng đó, Đảng Cộng sản Liên Xô và toàn thể nhân dân Liên Xô đồng thời tỏ lòng kính trọng sâu sắc của mình đối với hương hồn đồng chí Hồ Chí Minh, người con trung thành và người lãnh đạo lớn của Việt Nam, người Mác-xít - Lênin-nít kiên cường, người chiến sỹ theo chủ nghĩa quốc tế vô sản bất khuất và người bạn lớn của nhân dân Liên Xô...".
Vậy các đồng chí bên ấy chưa trả lời ngay những yêu cầu khá khẩn trương của Việt Nam, chắc là Bạn đang có khó khăn gì đây? Quả nhiên, sau đó nhận được trả lời của Phó Thủ tướng Nô-vi- ôp. Đại ý là trước hết các đồng chí Liên Xô xin ta thông cảm vì Bạn còn phải xem xét lại cẩn thận mọi việc. Nay Trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô rất lấy làm tiếc chính thức phúc đáp lại rằng không thể đáp ứng được đủ ngay những yêu cầu hiện nay của Việt Nam. Lý do là hồi cuối năm ngoái (tháng 12 - 1972) điện và công văn của Việt Nam gửi sang Liên Xô báo tạm hoãn xây Lăng Bác vì Mỹ ném bom trở lại, nhưng trong công văn chỉ nói là tạm hoãn "Một thời gian", mà không có dự kiến cụ thể khi nào sẽ tiếp tục. Vì thế trong kế hoạch toàn bộ của Liên Xô năm nay (1973) không có danh mục nào về việc giúp Việt Nam xây Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bây giờ Việt Nam mới báo lại, Liên Xô gặp nhiều khó khăn cả trong nguyên tắc, cả trong thực tế về điều chỉnh các kế hoạch. Hơn thế nữa, hàng năm bản thiết kế kỹ thuật cụ thể về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mà các chuyên gia Việt Nam cùng chuyên gia Liên Xô tiếp tục hoàn thiện, nhưng vừa qua các bản thiết kế đó hiển nhiên cũng đã phải tạm dừng, nên nay chưa hoàn tất ngay một cách mau lẹ được.
Bấy giờ mới rõ. Các đồng chí lãnh đạo Việt Nam thừa nhận sự trục trặc này đúng là do mình vì khi thông báo tạm ngừng, chúng ta đã không thông báo cho Bạn dự kiến cụ thể khi nào thi nối lại công việc. Bên Bạn đã quen làm việc theo tác phong công nghiệp quen nên cái gì cũng phải rất cụ thể, chính xác.
Thế là lại phải bàn. Rồi một quyết định mang tính khẩn trương "Chữa cháy" đã được đưa ra. Đồng chí Vương Quốc Mỹ , khi đó đã được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Kiến trúc kiêm Chỉ huy trưởng công trường 75808, lập tức lại được phái sang Liên Xô trình bày chi tiết mọi việc, nhất là quyết tâm của Đảng ta căn cứ vào lòng dân tiếp tục xây Lăng Bác. Ông Vương Quốc Mỹ không khỏi lo lắng chưa biết kết quả sẽ ra sao. Nhưng các đồng chí trong Bộ Chính trị của ta đã nhấn mạnh tới uy tín và tình cảm lớn của Bác Hồ với Liên Xô và cả thế giới để đồng chí Mỹ vững tin vào chuyến đi...
Yên tâm hơn, dù vẫn còn không ít hồi hộp, ông Mỹ khẩn trương bay đi ngay. Trong khi ấy ở "nhà", để phối hợp, đồng chí Đỗ Mười, Phó Thủ tướng cũng điện cho Đại sứ Võ Thúc Đồng ở Mát-xcơ-va hết sức giúp đỡ đồng chí Vương Quốc Mỹ trong nhiệm vụ quan trọng này, đồng thời báo với Liên Xô là ta sẽ cử sang một đoàn chuyên gia của ta sang đó để cùng các chuyên gia Liên Xô tiếp tục hoàn thiện các bản thiết kế kỹ thuật, nhằm sớm có thể đưa vào sản xuất.
Và Hà Nội lại chờ, lại suy nghĩ về tất cả mọi tình huống thuận lợi, không thuận lợi.
Một ngày. Rồi hai ngày. Rồi gần hết một tuần, cuối cùng thì điện từ Mát-xcơ-va cũng đã bay về: Liên Xô đã nhận lời. Ôi! Quả là phải có tình thần quốc tế vô sản và tình nghĩa gắn bó bao năm, lòng kính yêu đặc biệt với Bác Hồ, Bạn mới có thể cố gắng và tìm ra được các phương sách để giúp ta... Và Liên Xô đã hứa là các đồng chí ấy sẽ nghiêm túc thực hiện. Tất cả các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta thực sự rất mừng.
Sau đó, gần như ngay tức khắc, một đoàn cán bộ khoa học kỹ thuật của Bộ Kiến trúc và Bộ Tư lệnh Công binh gồm những kiến trúc sư, kỹ sư có uy tín, tay nghề giỏi được cử sang Liên Xô để phối hợp cùng các chuyên gia Liên Xô hoàn tất các bản thiết kế kỹ thuật.
Thời tiết Mát-xcơ-va đang vào mùa đẹp, lại được các Bạn chuyên gia Liên Xô đón tiếp rất thân tình, đoàn Việt Nam bước xuống sân bay hết sức phấn chấn. Nhưng các đồng chí ta đề nghị được bắt tay ngay vào việc, không cần nghỉ. Mỗi ngày làm việc với Bạn 7 giờ, tối về lại họp tổ. Rất bận rộn và vất rả. Tuy nhiên, tinh thần mọi người trong đoàn ta vẫn hoàn toàn tốt. Trong quá trình làm việc với chuyên gia Bạn đôi khi cũng gặp những vấn đề phải tranh luận, nhưng phần nhiều là các vấn đề và chi tiết thuộc về đề văn hoá, tính dân tộc hoặc đặc điểm địa lý, khí hậu mà hai nước có những điểm không hoàn toàn giống nhau, nên các chuyên gia Bạn không hiểu hết. Do đó cũng dễ đi tới thống nhất ý kiến trong tinh thần đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau. Cho tới tháng 9, đoàn ta đã có bản thiết kế về nền, móng hoàn chỉnh - bản thiết kế cần thiết đầu tiên. Cả đoàn vẫn tiếp tục ở lại làm việc tiếp với chuyên gia Bạn về các bản thiết kế khác thuộc hai phần quan trọng nhất là xây dựng và lắp máy.
Nhận được bản thiết kế nền, móng hoàn chỉnh, ở nhà điện sang rất cảm ơn Bạn, đồng thời cũng đề nghị Bạn gửi ngay sang giúp ta một số chuyên gia đóng cọc bản thép cùng một số cọc bản thép nữa. Chuyên gia và vật liệu chuyên dùng ấy ở Việt Nam hiện đang gần như hoàn toàn thiếu. Lại yêu cầu Bạn cũng gửi ngay một số máy bơm hút nước cho các hố móng, vì mùa mưa ở Việt Nam sắp đến rồi. Bạn vui vẻ trả lời sẽ gắng lo liệu đáp ứng.
Khi ấy ở trong nước, dù luôn luôn phải yêu cầu Bạn giúp những chi tiết do ta còn nhiều thiếu thốn, nhưng các cấp lãnh đạo của ta vẫn nhấn mạnh tới ý thức chủ động và tinh thần tự lực, tự cường, dốc lòng dốc sức trong mọi việc, nhằm huy động cho được những vật tư, thiết bị cần thiết sẵn có trong nước dù có cũ kỹ "già lão", quyết không có tư tưởng ỷ lại. Đúng như vậy, ngay từ những buổi đầu, Ban Phụ trách xây dựng Lăng theo chủ trương của trên đã kêu gọi tất cả các nơi chung lòng chung sức đóng góp xây Lăng. Kết quả: Nhiều thiết bị các loại lớn, nhỏ từ các địa phương đã được nối tiếp nhau tình nguyện đưa về Ba Đình bằng đủ các phương tiện: Ô tô, tầu thuyền, thận chí nơi gần dùng cả xe thồ... Nhiều địa phương, đươn vị sẵn sàng giúp đỡ công trường xây dựng Lăng khi có yêu cầu, như Ninh Bình đã rút ra từ một xí nghiệp quan trọng nhất của mình một máy cán thép - thứ đang rất hiếm ở miền Bắc khi đó để đưa lên công trình xây Lăng. Công trường nhà máy Gia Sàng - Thái Nguyên cũng ra sức gia công vỏ nhôm bảo ôn cho các ống nước sẽ dùng cho Lăng, và cho mượn cả những vật tư, công cụ nhỏ nhu pa lăng, tời, máy đánh gỉ sắt, máy cuộn tôn thép... Cơ khí điện ảnh Bộ Văn hoá, Xưởng Quân giới X10, Tổng cục Hậu cần quân đội đã nhận sản xuất cho Lăng hàng chục vạn bộ bu-lông, đai ốc có chất lượng cao để liên kết các ống hơi, ống nước của công trình. Đặc biệt, biết công trường Lăng đang cần ngay những cọc bản thép để kè đất chống lở, chống thấm khi đào hố móng cho Lăng, cảng Hải Phòng đã nhớ ra mình cũng có một số cọc bản thép vẫn để kè các bến cảng, nay thấy Ba Đình cần mặt hàng hiếm có này mà cọc của Liên Xô chưa kịp sang, Ban Chỉ huy Cảng đã tranh thủ cho anh em đi vét, tập trung các cọc bản thép của mình ở các nơi, đưa lên Hà Nội được 200 cọc. Hải Phòng còn gửi thêm một búa hơi cũng đang là của rất quý hiếm của Cảng. Và để mau chóng chuyển về Ba Đình những vật tư lớn nhỏ ấy, tất cả các bến xe lửa, xe hơi, nhất là các cảng biển và cảng sông lớn, nhỏ đều dành quyền ưu tiên hàng đầu cho các hàng về Lăng. Hàng quốc tế không thuộc công tình Lăng nhiều khi cũng phải để lại sau, nhường cho hàng của Lăng bốc dỡ trước. Các vật tư gửi về công trường cùng chung một khẩu hiệu "Tất cả cho ngày khởi công xây dựng Lăng Bác".
Nhưng không phải toàn chỉ có xi măng, sắt thép, cát sỏi, máy nọ máy kia, cũng đã có một số gỗ quý của một số địa phương ngoài Bắc đã sớm được đưa về. Gỗ Tây Bắc, Đông Bắc, gỗ Việt Bắc, gỗ Khu 4, Quảng Ninh, Móng Cái... Những xe gỗ lim đồ sộ, những xe gỗ trắc to lớn, tất cả đều nặng nề và cồng kềnh... Gỗ nói chung thường được chở bằng đường sông hoặc đường biển như từ Quảng Ninh hoặc Nghệ An, Quảng Bình... ra, nhưng cũng có nơi chở theo đường bộ, nhân dân nhiều nơi bên đường biết là xe gỗ về xây Lăng Bác đã kéo ra hoan hô, xe gặp lầy giúp chống lầy, gặp dốc giúp vượt dốc... Về tới Hà Nội, những xe gỗ ấy được phép đi qua các phố đông đúc để vào thẳng công trường Ba Đình. Trên một số xe có cả những cô gái, chàng trai các dân tộc khác nhau như: Mường, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ... với vòng bạc, vòng đồng và áo quần màu sắc rất bắt mắt, trẻ em và cả học sinh chạy theo vẫy chào, vui như đi xem văn công.
*
* *
Cùng thời gian này, trong các chiến trường còn đầy khói lửa, miền Đông, miền Tây Nam bộ, Tây nguyên, Khu 6, Khu 5, Quảng Đà, Bình Định, Phú Yên... song song với nhiệm vụ chiến đấu là công việc kiếm tìm vật tư, vật liệu gửi ra Lăng Bác đã gần như trở thành phong trào "Vừa đánh Mỹ - Thiệu, vừa thi đua kiếm gỗ quý, đá quý để góp xây Lăng Bác”.
Nhưng không phải bây giờ bà con cô bác và chiến sỹ trong đó mới sôi nổi lo kiếm gỗ, đá quý gửi ra xây Lăng Bác, mà ngay từ năm 1970, sau khi Bác mất không lâu, biết có chủ trương xây Lăng Bác, trong chiến trường Quảng Đà, các cơ sở Đảng cùng bà con dân tộc đã luôn luôn bàn làm sao có đá quý, gỗ quý để đem ra Bắc góp xây Lăng. Quân và dân Quảng Nam đã tìm mọi cách phá vòng vây địch vào núi Non Nước, gần sân bay Nước Mặn, chọn một số núi đá màu xám có vân đẹp, khiêng lên Trường Sơn, cho xe vượt hươn 900km trở ra Hà Nội.
Ở Phú Yên, đồng bào và các chiến sỹ giải phóng quân cũng nhiều ngày lặn lội vào rừng sâu, lên núi lớn thuộc huyện Sơn Hoà và miền Tây của tỉnh. Một đoàn gồm cán bộ, dân quân du kích, đại biểu thanh niên, phụ nữ và không thể thiếu các già làng, đã cùng nhau đi tìm những cây mun rất quý. Hai ông người dân tộc: Y Khưu và Sô Man là hai người chuyên dẫn đường tinh khôn và can đảm nhất. Đoàn đi tìm gỗ cơm đùm muối bọc băng rừng lội suối, leo lên những ngọn núi cao và hiểm trở trong vùng như Hòn Nhọn, Hòn Bà, Hòn Bố... cực kỳ vất vả. Hơn một tuần rồi mà chưa tìm thấy mun, lương thực đã gần hết, nhưng đồng bào vẫn và chiến sỹ ta vẫ cứ đi tiếp, quyết tâm đói sẽ ăn củ rừng. Không một ai chịu về. May sao giữa lúc đó Huyện đội đã kịp cho người phi theo, lên báo: Ở hướng bên có ông Lang Sơn ở buôn Suổi Trâu xã Sơn Hội cùng một số cán bộ đã tìm thấy mun... Thế là khóc mà reo lên: "Bác Hồ thiêng quá! Bác giúp ta đó!".
Nam Bộ cũng có nhiều gỗ rất quý hiếm, nhất là gỗ nu, loại gỗ được coi như "Chúa tể". Gỗ Nu có ở miền Đông nơi bạt ngàn rừng cao su, nhưng cũng có cả ở rừng sâu. Nay quân dân miền Đông cũng hết lòng và không công sức đã tìm được ra nu. Lộc Ninh là trọng điểm tìm kiếm. Những cây nu hàng trăm tuổi, to, cao, xanh ngắt nom như những thần cây. Đặc biệt trên thân cây nào cũng có hàng trăm vết đạn bom Mỹ Thiệu. "Nu đây rồi!", "Vàng mười đây rồi để dâng Bác!" Nhiều ba con và chiến sỹ cùng ôm lấy cây mà reo lên mãi.
Và đồng bào Thượng ở Tây Nguyên cũng như vậy, luôn tâm niệm: "Đánh giặc cũng phải tìm được cái gỗ quý, cái đá quý để xây nhà Bác Hồ chứ!". Một ngày đầu năm 1973, Bí thư Tỉnh uỷ Gia Lai là đồng chí Bình về Sơn Lang họp với bà con, hỏi: "Bà con Sơn Lang có ai xung phong đi kiếm gỗ quý gửi ra Bắc để góp xây Lăng Bác Hồ không?". Đồng bào hỏi lại: "Lăng là cái chi?". Sau khi nghe giải thích, đồng bào cùng thốt lên: "Thế thì phải góp gỗ tốt nhất để làm cái nhà cho Bác. Đánh xong thằng Thiệu, còn ra Bắc thăm Bác chứ!”. Trúng cái bụng bà con rồi!... Rừng KBang khi ấy còn là rừng nguyên sinh, nghe nói có loại gỗ quý là trắc. Thế là dân Sơn Lang kéo đi khai thác luôn. Đồng bào khua chiêng, phất cờ đỏ sao vàng vui như đi hội. Xã đội trưởng Đinh Rúp nổi tiếng can trường và rất khoẻ, đã cho cả cậu con trai mới 11 tuổi đi theo. Đinh Rút cười: "Hắn nói hắn là cháu Bác mà, xin đi. Vậy cho nó đi thôi!". Người đem theo gạo, người đem theo củ mì. Thức ăn chỉ có măng rừng. Núi rất cao, rừng rất rậm. Leo đèo vượt suối hết sức gian khổ. Nhưng không hề nghỉ. Các ngọn núi cao nhất như Chơ Răng, Kon Ka... đều lên hết. Và cuối cùng đã tìm thấy trắc. Lạy Thần rừng xong, hạ luôn. Nhưng trắc quá rắn. Có những nhát rìu chém xuống như toé lửa. Phải dùng tới búa lớn. Cuối cùng trong tiếng reo hò, bà con ta đã hạ được trắc, hết cây này tới cây khác. Mỗi cây dài tới 4 hoặc 5m, đường kính có cây to quá, dài quá, phải cưa ra thành hai, ba khúc lớn... Tìm gỗ đã vô cùng gian lao, nhưng chuyển được gỗ xuống tới nơi tập kết còn gian nan hơn nhiều. Xuyên rừng, qua sông... nhất là qua những đồn bốt của Thiệu luôn luôn phải sẵn sàng tử chiến để bảo vệ gỗ. Rồi vẫn chỉ với những đôi vai, những cánh tay trần cùng với đòn xeo, thừng chão, khá lắm đôi nơi mới có được trâu của dân bản kéo giúp, cuối cùng bà con cũng đưa gỗ tới vùng giáp ranh của Quảng Ngãi, và từ đó ra đường Trường Sơn - con đường chiến lược, nay dù đã được mở mang và có thêm pháo phòng không vào yểm trợ, nhưng vẫn đang còn là con đường lửa máu, xe vẫn cháy, người vẫn hy sinh, hàng vẫn có khi tan nát, hoặc mất trắng...
*
* *
Đã vào hè. Trời đất đã qua những ngày mưa phùn ẩm ướt và qua cả cái rét "nàng bân" diêu diêu đầy gợi cảm cho các thi nhân. Nay nắng mới đã bừng lên làm lòng người cũng như vui thêm, nhất là ở công trường 75808 vẫn đón nhận những tin tức rất đáng khích lệ trong chiến trường về chiến đấu, và cả việc đồng bào vẫn hết lòng tiếp tục đi kiếm tìm gỗ, đá quý. Ngoài Bắc, cũng chẳng kém tin mừng và phấn khởi trong các việc chuẩn bị nhân lực và vật liệu để khởi công phần xây Lăng Bác. Rất sôi nổi và rộng lớn. Dù kết quả chưa phải đã thật hoàn hảo, nhưng bước đầu như thế đã là khá tốt. Ban Phụ trách xây dựng Lăng Bác đã quyết định đề nghị lên Bộ Chính trị cho dỡ lễ đài cũ ở Quảng trường Ba Đình để bắt đầu khởi công xây dựng.
Ngày 16 tháng 6 năm 1973, một số đồng chí trong Bộ Chính trị đã gặp nhau ở ngay lễ đài cũ tại Quảng trường để xem xét lại toàn bộ công việc chuẩn bị cho khởi công xây Lăng và cân nhắc đề nghị của Ban Phụ trách xây dựng xin dỡ bỏ lễ đài cũ. Các đồng chí lãnh đạo rất vui thấy mọi việc đã tiến triển rất tốt, trước hết là do nhân dân trên cả nước từ Bắc tới Nam vô cùng nhiệt tâm ủng hộ và góp công, góp sức, cùng với sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của các Bạn Liên Xô. Các đồng chí lãnh đạo của Đảng đã đồng ý tháo dỡ lễ đài bây để triển khai công việc.
Qua ngày hôm sau, ngày 19 tháng 6 năm 1973, đúng 7 giờ 30, lễ dỡ đài cũ ở Quảng trường Ba Đình được bắt đầu.
Gọi là lễ hoặc buổi chính thức tuyên bố và phát lệnh dỡ lễ đài cũ cũng đúng. Nghi thức giản dị nhưng vẫn rất long trọng vì thành phầm tham dự toàn là những đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ như các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, Xuân Thuỷ... cùng Ban Phụ trách xây dựng Lăng và Ban Chỉ huy công trường 75808. Một số chuyên gia Liên Xô đã sớm sang làm việc giúp ta từ lâu hôm nay cũng có mặt như Tổng công trình sư Mét-vê-đép - Trưởng đoàn chuyên gia thi công và kiến trúc sư I. Sa-cô-vich Ga-rôn tác giả chính đồ án thiết kế Lăng Bác và đồng chí Vũ Kỳ, người thư ký tuyệt đối trung thành của Bác trước đây. Ông Vũ Kỳ vẫn theo gương giản dị của Bác, mặc một bộ đồ bà ba vải nâu, đi guốc mộc, nhưng từ khi Bác qua đời ông đã để một hàng ria trên mép. Ông luôn có mặt ở quảng trường này để giúp các đồng chí trong Ban Chỉ huy xây dựng nắm tình hình chung, hôm nay tất nhiên ông càng không thể vắng mặt. Ông không khỏi xúc động, buồn rầu nhớ lại hình ảnh Bác gần 30 năm qua như đã gắn liền với lễ đài này... Thiêng liêng biết bao! Bây giờ lễ đài này sẽ bị phá dỡ đi, tất nhiên là để xây dựng một công trình to đẹp gấp nhiều lần và Lăng vẫn có có lễ đài kết hợp, nhưng dẫu sao ông Kỳ vẫn không khỏi có phần tiếc nuối. Thế rồi đồng chí Trường Chinh thay mặt Bộ Chính trị phát biểu. Vẫn với cách nói trang nghiêm, khúc triết nhưng hôm nay còn cả niềm xúc động. Trước hết đồng chí nhắc lại công ơn trời biển của Bác với Tổ quốc, với nhân dân ta, sau đó nói tới chủ trương xây Lăng Bác là hoàn toàn hợp với nguyện vọng vô cùng tha thiết của toàn dân từ Bắc tới Nam và cả kiều bào ở nước ngoài.
Những người đứng quanh lễ đài lắng nghe, và cũng như ông Kỳ, nhiều người cùng rớm lệ nhớ Bác...
Sau đó công việc phá dỡ bắt đầu với những xe cần cẩu và máy xúc đã túc trực sẵn. Khi những tiếng búa vang lên và khói bụi bắt đầu bay mờ, phần trên lễ đài bị phá trước. Đồng chí Trường Chinh bỗng yêu cầu ngừng lại một chút, để đồng chí bước lên chỗ trước đây hàng năm cứ vào dịp Quốc khánh ngày 2 tháng 9, Bác vẫn đứng đó đọc diễn văn và cầm chiếc mũ cát đã cũ vẫy chào đồng bào. Lên đúng chỗ cũ đó, đồng chí Trường Chinh cúi xuống trân trọng bê lên mảng gạch hoa vẫn như vẫn còn ấm dấu chân Người, nay đã trở thành di vật lịch sử để trao cho Ban Chỉ huy công trường đưa vào Bảo tàng Cách mạng... Cử chỉ bất ngờ nhưng quá đẹp và có ý nghĩa rất sâu sắc ấy của đồng chí Trường Chinh đã làm cho không khí buổi tháo dỡ lễ đài cũ càng thêm trần đầy tình nghĩa. Mọi người đều như cảm thấy Bác đang trở về nơi đây và với cặp mắt sáng láng đầy tình thương yêu, Bác như đang lặng nhìn những đồng chí, những chiến sỹ, những người em, những người con, những người cháu yêu quý của mình.
*
* *
Cho tới sáng hôm sau, đi qua quảng trường, mọi người đều thấy đã có một hàng rào tre nứa, được dựng lên có lẽ từ trong đêm, vây kín hết. Nhìn qua hàng rào thấy đã có nhiều xe ủi, cần cẩu, cùng các xe tải: Ben, Giải phóng, Gấu... Ai ai cũng phẫn khởi: "Ôi, hay quá, đúng là bắt đầu khởi công xây Lăng rồi bà con ơi! Chờ mãi, nghe nói mãi" Có người tự hào như mình đã biết rõ tất cả mọi việc: "Thế là thời kỳ chuẩn bị đã xong rồi đấy các vị ạ! Hôn nay là chính thức đi vào thi công đây!"...
Tuy nhiên không phải là đã có thể thi công ngay hôm đó, mà công việc thu dọn mặt bằng còn phải làm mấy hôm nữa.
Cho tới ngày 10 tháng 8 - 1973, Ban chỉ huy công trường được sự đồng ý của trên cho bắt đầu tiến hành công việc đầu tiên là đóng các cọc bản thep và đào hồ móng của công trình sẽ tiếp theo. Các hố móng sẽ được đào ở phía trong, cách khoảng 5 m với hàng rào cọc bản thép.
Các cọc bản thép dài 2 mét, dẹt, to bản 20 Chào mừng các vị đại biểu , hai bên mép có những móc ngoàm để móc vào nhau rất kín, sẽ cùng tạo thành một bức tường thép đượcd dóng ngập xuống mặt đất bao quanh cả khu vực móng, nhằm chống đất giãn nở và chống nước ngầm rỉ vào các chân móng gây tác hại Kỹ thuật mới này thế giới đã làm từ lâu, nhưng ở nước ta chưa hề có. Quan trọng như xây trường Nguyễn Ái Quốc cũng chưa có...
Anh em công nhân được giao làm nhiệm vụ đóng cọc bản thép là một đội công nhân trẻ ưu tú của Cảng Hải phòng (sau đó ít ngày, để đẩy nhanh tốc độ thi công hơn nữa, công trường đã tổ chức thêm một đội thợ của Công ty xây dựng bộ Kiến trúc) cả hai đội đều hoàn toàn chưa quen với kỹ thuật này, dù đã được huấn luyện trước một ngày, nên bước đầu vào việc khá vất vả. Vất vả thêm nữa là dịp này rất nắng, như đổ lửa. Mồ hôi như tắm suốt ngày. Mặt mày anh nào cũng cháy đỏ. Thêm khó khăn nữa là có hai búa máy đã cũ, một cái mới "Vào trận" được mấy hôm đã hỏng nẳng phải đưa đi đại tu. Cấp trên đã điều tơi cho một chiếc túa rung, nhưng cũng đã "Bô lão" cả.
Tuy nhiên, anh em đã làm việc hết sức hăng say dưới nắng lửa cùng mấy chiếc búa máy ấy. Lo chậm, anh em đều tình nguyện xin làm cả những ngày chủ nhật. Do đó năng xuất cũng lên dần, lúc đầu chỉ trên dưới 4 cọc/ca, sau lên dần tới 21 cọc/ca, rồi 34 cọc/ca...
Ông Bé kỹ sư - người xứ Quảng, rất hiền hậu, vốn là bạn học cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi xưa. Tập kết ra Bác, nay ông là phó ban chỉ huy Công trường, ông trực tiếp theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, động viên hai đội công nhân cọc bản thép này. Ông hết sức cảm động trước tinh thần làm việc của các chàng thợ trẻ. Ông luôn luôn cổ vũ họ làm việc, giúp đỡ họ những lúc khó khăn. Ông săn sóc họ như cha thương con. Chính ông đã đề nghị tổ chức thêm đội thứ hai để đảm bảo thời gian và anh em khởi phải vắt đến kiệt sức để hoàn thành công việc. Bỗng một hôm, trời còn đang nắng gắt, một cậu thợ trẻ đang lao động cùng chiếc búa hơi nom thấy ông đi tới, la lên:
- Thủ trưởng ơi, sắp có mưa lớn đấy, ,có thể mưa dài ngày nữa...
Ông Bé dừng lại và nhận ra cậu ta vốn là con nhà chài ở Cát Hải - Hải Phòng. Vậy cậu ta kêu là sắp mưa chắc không phải chuyện đùa. Con nhà chài rất thạo nắng mưa. Quả nhiên, ngay chiều hôm ấy mưa lớn ào ạt đổ xuống. Cả công trường như bị vùi dập dưới màn mưa trắng trời trắng đất. Ông Bé nói với các đội trưởng cho anh em tạm nghỉ tay. Nhưng tất cả vẫn xin tiếp tục làm việc. Anh em đã hiểu được công việc, biết thời gian không cho phép hộ dềnh dàng....
Ngày mưa. Đêm vẫn mưa. Hôm sau và hôm sau nữ tiếp tục mưa. Nhưng các thợ trẻ cũng vẫn vui, tuyên bố là anh em đang "Thử mưa" không có kém gì "Thử lửa" ở chiến trường miền Nam hiện nay. Anh em sẽ thi đua với chiến sĩ miền Nam quyết thắng, cầu khấn Bác phù hộ cho anh em mạnh chân khoẻ tay để tiếp tục "Chiến đấu" với "Giặc mưa" tới cùng.
Và dường như anh em đã cầu được ước thấy: Mưa đã chấm dứt. Trời lại nắng to. Từ hôm đó năng xuất lại lên. Tường Phùng Thế Tài phó Ban xây dựng cùng Kỹ sư Vương Quốc Mỹ chỉ huy trưởng công trường ra thăm và khen anh em cọc bản thép. Nhưng Bộ CT muốn đẩy nhanh thời gian hơn nữa nên đã cho phép xây Ban xây dựng và ban Chỉ huy công trường không chờ xong đóng cọc bản thép, mà cho tiến hành đào hố móng toàn Lăng sớm, coi như cọc bản thép và hố móng cùng làm song song với nhau và cùng thi đua.
Ông Bé đã vui vẻ giải thích thêm cho anh em thợ hiểu và nhấn mạnh: quyết định của trên cho đào hồ móng sớm là một quyết định hết sức táo bạo. Vì thời gian! Phải, tất cả vì thời gian! "Anh em hiểu".
Nhưng sấm lại nổi ầm ì. Bầu trời lại đầy mây. Đúng là vẫn còn mưa. Mùa mưa mà! Gian khổ vẫn còn nhiều ở phía trước. Nhưng một cậu trong cánh thợ bỗng bật lên một câu nhại đùa câu ca dao xưa: "Trời mưa thì mặc trời mưa, anh em cọc thép có thừa... dẻo dai". Cả bọn cùng cười oà. Khi thấy anh em đào hố móng tập nập kéo tới, anh em cọc bản thép cũng mừng. Mừng vì kế hoạch chung sẽ không lo bị chậm, mừng vì có thêm anh em đến, càng đông càng vui.
Quang cảnh đúng là có nhộn nhịp hơn, vòng trong hố móng, vòng ngoài cọc bản thép. Cả hai đội thi nhau và cùng làm cả 3 ca, dù nắng dù mưa. Về phần cọc bản thép, Liên Xô vẫn chưa đưa sang kịp, nhưng dẫu sao ta cũng tự "Chạy" được dần dần, mặc dầu tổng số cọc như các kỹ sư đã tính rồi: Sẽ phải tới 1500. Về phần hố móng, các chuyên gia, kỹ sư cũng đã tính: để hoàn tất toàn bộ diện tích hệ thống hố móng sẽ phải đào trên 6 vạn mét khối đất và cũng phải chuyển trên 6 vạn mét khối đất đi nơi khác. Giả dụ dùng lao động thủ công thì cần phải có 300 người lao động liên tục trong 8 tháng liên. Nay xe trọng tải lớn, cần cẩu lớn, máy xúc, máy hút nước... cùng các loại vật tư khác của Liên Xô vẫn chưa tới được cảng Hải Phòng. Tuy nhiên, cũng không thể thụ động ngồi chờ. Chờ sẽ dứt khoát không kịp thời gian trên đã quy định là 2 năm. Phải cố tranh thủ mà làm...
Và ngày 2 tháng 9 - 1973 ngày được quy định chính thức khởi công trên toàn công trường xây Lăng Bác. Cả hai bên hố móng và cọc bản thép đều vẫn chưa xong. Tuy nhiên hai việc này (đóng cọc bản thép và đào hố móng) là linh hoạt tranh thủ làm trước lễ khởi công được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, nên khi làm lễ khởi công mà cọc cùng móng vẫn còn làm là chuyện bình thường như nhiều công trường khác xưa nay cũng thế....
Toàn công trường tập nập sửa soạn cho buổi chính thức khởi công từ tối hôm trước. Xe cộ, máy móc phục vụ cho công trình đào hố móng được điều về thêm: từ các máy xúc E652, xe Bò tót... đến cả các xe ba gác đẩy tay nữa để chuyển tải đất thải và máy hút nước ở các hố móng, máy san ủi đất nữa. Tận dụng hết. Tất cả làm cho công trường đã ngổn ngang hàng hoá, vật tư, máy móc nay càng thêm ngổn nganh, chặt chội. Mưa lại đổ xuống gần như suốt đêm trước. Ai cũng lo nếu còn mưa, buổi lễ khởi công sẽ bị ảnh hưởng lớn và buổi đầu "Xuất trận" chung có thể sẽ giảm mất khí thế.
Nhưng không ngờ sáng hôm sau - đúng ngày 2 tháng 9 (mà ai cũng thầm nhớ đó là ngày giỗ Bác lần thứ 3) không những mưa đã tạnh lại còn hoe nắng khá đẹp, dù trên mặt đất vẫn còn lênh láng nước, cây cối vẫn còn ướt chưa khô hẳn trước gió sớm. Không khí thật là vui. Hôm nay có khả đông đủ từ Ban chỉ đạo xây dựng, tới Ban chỉ huy công trường 75808. Vẫn có cả một số chuyên gia Liên Xô sang giúp ta cũng có mặt. Đã có nắng sớm lại đứng dưới một rừng cờ đỏ tất cả các gương mặt trẻ già như đều hồng lên trong nhiều niềm vui và hy vọng. Thế rồi đồng chí trưởng Ban xây dựng đích thân nói chuyện. Đồng chí nhấn mạnh đây là chính thức bắt đầu "Khúc dạo đầu quan trọng của bản đại giao hưởng LăngBác". Những người đã đi trước trong "Khúc dạo đầu" này là hai đội cọc bản thép và đào hố móng, được yêu cầu tiếp tục phát huy tinh thần thi đua đã có để các bộ phận mới vào "Trận" noi theo... Rồi đồng chí nói rộng ra tầm ý nghĩa quan trọng của Lăng Bác: không những có tác động lớn lao trong cuộc chiến giành lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc mà còn góp vào sự phát triển tốt đẹp của đất nước mãi mãi về sau... Đồng chí nhắc lại yêu cầu mà cũng chỉ thị của đồng chí Trường Chinh đã nêu ra: là phải "Khẩn trương và khẩn trương!".
Đồng chí trưởng Ban xây dựng dứt lời, anh công nhân Vũ Tất Ban là Anh hùng lao động nổi tiếng - người đã vinh dự được Bác tới thăm gia đình vào dịp Tết năm 1968. Nay anhVũ Tát Ban được thay mặt toàn thể anh em công nhana lưa hứa hẹn với Ban xây dựng, Ban chỉ huy công trường sẽ làm việc hết mình cho xứng đáng là con cháu Bác và cũng là để chào mừng và hưởng ứng những chiến công lớn của đồng bào miền Nam nhằm đánh gục hoàn toàn bè lũ Thiệu giải phóng đất nước...
Sau đó, một tiếng hô vang cất lên, đồng thời là lá cờ đuôi nheo phất mạnh. Một chiếc máy xúc E652 lập tức mạnh mẽ ầm ầm tiến lên rồi lại dừng lại ở một điểm đã được chỉ định sẵn trên khu vực khán đài bên trái (nơi đã được quy định đào móng trước tiên, rồi lần lượt sẽ đào tiếp tới phần chính Lăng ở giữa, sau rốt là khán đài bên phải). Tới đúng chỗ, chiếc E652 vươn dài chiếc cần trục rất mạnh mẽ, há cái miệng gầu đầy những răng thép lớn lao phập xuống, ngoặm ngay rất ngon lành một khối đất lớn đầu tiên. Cũng không hề chậm trễ một giây, một chiếc xe Bò Tót ve ve băng tới, dí thùng xe vào gần, để nhậu gầu đất nhả xuống. To khoẻ vậy mà chiếc Bò Tót như cũng phải rùng mình một cái vì gầu đất lớn rất nặng và đầy thùng. Tiếp đó, cứ như thế, những chiếc Bò Tót khác mau mắn, lần lượt nối nhau chạy vào nhận đất thải của máy xúc đem đi... Các xe đất đều chạy ra đổ ở một vùng ao chuôm hoang thuộc vùng láng. Nơi đây đã được Chính phủ và Thành phố quyết định sau khi hơn 6 mét khối đất của công trường Lăng Bác đổ xong ở đó, sẽ san bằng, rồi một bệnh viện lớn, đàng hoàng, cho thiếu niên, nhi đồng sẽ được xây lên tại chỗ...
Trong lúc đó mọi quan khách trên công trường vẫn còn nán lại xen quang cảnh đào hố móng nhộn nhịp, cùng anh em đóng cọc bản thép tiếp tục hăm hở làm việc ở liền ngay đó, nhiều người đã hiểu ra: gọi "Hố móng" là theo ngôn ngữ của xây dựng cổ truyền, nhưng ở đây không phải là những hỗ móng thông thường thư của các nhà dân, thậm chí các dinh thự hoặc công sở. ở những công trình dân dụng hoặc công sở bình thường, hố móng chỉ sâu tới khoảng 2 mét hoặc hơn một chút. ở đây khác, hố móng là cả một tầng hầm sau tới 6 mét có chỗ 8 mét và kéo dài theo tổng chiều dài của cả Lăng là hơn 150 mét (hai khán đài ở hai bên chỉ rộng 20 mét, nhưng khối chính Lăng ở giữa hình vuông rộng mỗi bề 31 mét. Có thêm một phòng đặc biệt để phòng chiến tranh ở liền ngày phía sau khối chính Lăng).
Gần trưa, trời lại tối xầm. Lại sắp có mưa to! Rồi mưa đổ xuống thật. Không những mưa to, lại còn gió mạnh gần như bão. Gió rít lên từng hồi. Mưa giăng kín trời kín đất. Tuy nhiên các máy xúc vẫn ầm ào liên tục làm việc. Những chiếc xe chở đất vẫn như những đàn voi lớn lồng lên nối nhau chạy đi chạy về hối hả. Không một xe, máy nào chậm lại. Anh đội trưởng chỉ huy cuộc đào xúc đất luôn luôn vừa nước mưa trên mặt vừa chỉ huy vừa luôn thét lên: "Hãy vì Bác! Anh em công nhân xây dựng hãy dũng cảm tiến lên hoàn thành nhiệm vụ!" "Hãy thi đua với nhân dân, chiến sĩ miền Nam đang lăn lộn trong lửa đạn để tiêu diệt quân thù! Bác Hồ muôn năm! Quyết thắng mưa, thắng gió!"... Trong cùng lúc đó, ở liền ngay bên, anh em đóng cọc bản thép tiếp tục làm việc. Những khẩu hiệu bên đó cũng vang lên như át cả gió mưa" "Thi đua với các anh đào hố móng!, Quyết lập công dâng lên Bác!" - "Cọc bản thép cũng hướng về Nam, học tập, thi đua! Quyết không cúi đầu trước mưa gió!"... Ông Tài - Tổng tham mưu phó quân đội kiêm phó Ban xây dựng Lăng khoác tạm một chiếc áo mưa cũn cỡn do anh em phục vụ đem tới cho mượn, vẫn còn đứng đó, bên ông Vũ Kỳ, không khỏi xúc động: - Anh coi! Con cháu Bác ta như thế đấy! Vì Bác họ sẽ làm được tất cả!
Cuối cùng đúng là tất cả anh em công nhân của cả hai bên cọc bản thép và đào hố móng đã thắng. Dần dần mưa gió đã phải ngớt rồi tạnh hẳn. Anh đội trưởng đào "Hố móng" lại vuốt nước mưa trên mặt, thở phào nói với ông Tài:
Thủ trưởng ạ, nói thật, em lo quá. Nhất là xe tải. Ra ngoài ấy, đường vào bãi như thế chỉ "Kềnh", hoặc xa lầy một xe thôi, là chúng em đủ "Chết" rồi! Nhưng may, an toàn cả. Bác phù hộ cho đấy!
Ông Tài ôm lấy anh đội trưởng như ôm tất cả anh em đoàn xe, tất cả anh em máy xúc, kể cả những anh em cọc bản thép, anh em đào hố móng.
Cũng ngày hôm đó, để đẩy nhanh tiến độ thi công hơn và phòng những ngày mưa có thể sẽ còn tiếp diễn, vì mùa mưa lũ vẫn chưa qua, Ban chỉ huy công trường đã chấp nhận đề nghị của cả hai bên - đóng cọc bản thép và đào "Hố móng" công trình - cho anh em làm thêm cả ngày chủ nhất không nghỉ.
Sau đó, đáp ứng nguyện vọng của nhiều trường đại học, trung học, nhiều cơ quan đoàn thể, Ban phụ trách xây dựng Lăng đã cho nhận từng đoàn, từng đội thanh niên nam, nữ học sinh, viên chức và cả những đơn vị bộ đội thuộc Thành đội Hà Nội tới tham gia lao động ở quảng trường, làm những việc phụ động như dọn dẹp mặt bằng, khiêng vác, chuyển vận vật tư từ các nơi vẫn tiếp tục gửi về như cát, đá, sỏi, công cụ lao động. Những ngày thường, không nghỉ được, các trường học và một số công sở cũng tình nguyện xin được làm những ngày chủ nhật. Tuy nhiên một số cơ quan có thể thu xếp công việc, nên vẫn cho nhân viên tới lao động trong cả một số ngày làm việc. Riêng nhân dân các khu phố thì gần như liên tục... Quảng trường đã đông, càng thêm đông vui, tấp nập ngày đêm. Có cả một số đồng chí lãnh đạo của Chính phủ và Đảng cùng một số cán bộ cao cấp kể cả tướng lĩnh quân đội cũng tới lao động. Nhiều người dẫn trông thấy đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng Trung tướng Lê Quang Đạo tham gia đẩy xe ba gác chở đất thải từ hố móng ra các xe tải để chuyển đi... và đồng chí Lê Văn Lương uỷ viên Bộ CT tham gia chuyển cát, còn đồng chí Hoàng Quốc Việt cũng uỷ viên Bộ CT cùng anh em đóng cọc bản thép cùng chỉnh sửa lại những cọc đóng chưa thật tốt... Sự tham gia lao động của các đồng chí lãnh đạo và cán bộ cao cấp đã làm cho mọi người nhất là thanh niên, sinh viên, học sinh rất cảm động, do đó anh em càng hăng say làm việc gần như quên mình.
Mở đầu "Đại chiến dịch" xây dựng Lăng Bác như thế là rất đẹp. Những ngày tiếp sau đó công trường 75808 vẫn tiếp tục ngày đêm sôi động và các năng xuất đều tăng...
Trong khi ấy nhà máy Xi măng Hải Phòng báo lên: đã hoàn toàn thành công trong khâu thử nghiệm và đã bắt đầu sản xuất lớn loại xi măng đặc biệt. Đã đóng được mấy nghìn bao, bao nào cũng có dòng chữ "Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại". 1800 bao đang được chuyển gấp lên Hà Nội, và sẽ còn gửi tiếp tục gửi cho tới khi Lăng Bác đại hoàn thành. Đi đôi với tin vui của xi măng Hải phòng còn có cả tin vui từ Hoàng Thi-Thác Bà - Yên Bái và Thãnhuyên - Thái Nguyên. Hai nơi ấy cũng báo về đang tiếp tục gửi đá đã xay nhỏ về Lăng để sẽ góp phần đổ bê tông, gửi cả người chuyên về chọn lọc, tẩy rửa, làm sạch đá. Cũng đặc biệt là ở Hoàng Thi mỏ đá coi như đã ngừng hoạt động vì việc sản xuất, tiêu thụ trong chiến tranh có nhiều khó khăn, nay có yêu cầu lớn về đá dăm tốt cho công trình Lăng Bác, mỏ đá Hoàng Thi đã sống lại, thậm chí sống mãnh liệt hơn trước nhiều...
Riêng Cát vàng Kim Bôi vẫn chuyển về thường xuyên, đều đặn ngay từ đầu. Ban phụ trách công trường ở đó đã hứa sẽ bảo đảm liên tục suốt quá trình xây Lăng và cả công cuộc cải tạo quảng trường Ba Đình.
Tuyên Quang cũng cho biết gỗ nghiến, gỗ lim... cũng đang theo sông Lô xuôi về Hà Nội. Chỉ ít hôm nữa chắc chắn sẽ cập bến Phà đen...
Miền Nam cũng báo ra nhiều tin vui mới, động viên, khích lệ tinh thần anh chị em đang phục vụ ở Lăng rất lớn. Tình hình trong đó ngày càng khá hơn nhiều nhất là từ sau Hội nghị 21 của Trung ương mở rộng vừa qua (tháng 7 - 1973). Trị Thiên đã đánh bại nhiều cuộc hành quân tác chiến của Thiệu, đã giành lại hầu hết đất đai bị lấn chiếm từ sau hiệp định Paris. Vùng kiểm soát của Thiệu nay chỉ còn vùng quanh Huế, Quảng Trị và một ít ở ven biển, tức chỉ còn bằng 17% tổng diện tích của Thừa Thiên Quảng Trị... ở khu 5, từ hề thu 1973 quân dân ta chuyển hẳn lên thế tiến công, đã mở rộng bàn đạp ở các vùng giáp ranh, đánh địch cả ở đồng bằng xoá hàng trăm đồn bốt Thiệu, giải phóng thêm nhiều ấp với hàng chục vạn dân. Trong nhiều thành thị và vùng còn bị chiếm đóng đã xuất hiện phong trào đòi hoà bình, dân chủ, dân sinh, đòi thả tù chính trị, và công khai đòi Thiệu phải từ chức... Trong khu 8, ta cũng đã giành lại được nhiều mảng, nhiều lõm, giải phóng nhiều nơi Thiệu mới lấn chiếm, như ở Nam, bắc đường số 4. Ở Bến Tre, ta cũng đã giành được nhiều ấp, xã với gần 9 vạn dân... Ở khu 9 ta cũng loại được hàng nghìn quân địch, trong khi chúng đi càn quét, đặc biệt ta vừa đánh thắng cuộc hành quân lớn của Thiêu khi chúng định chiếm lại khu vực Ba Hồ... Nhiều nơi - từ Trị - Thiên tới Tây Nguyên và Nam bộ - khi tiến đánh địch, quân dân ta giờ đây đã thường có khẩu hiệu gần như giống nhau một nội dung: "Kiên quyết tiến công, đánh thắng hoàn toàn quân thù, để sớm được ra Hà Nội viếngBác!".... Các đồng chí TW có mặt tại chiến trường và các tư lệnh miền đều cùng một nhận định va báo cáo ra... "Đã có sự chuyển động tốt ở chiến trường miền Nam từ giữa 1973 và hiện đang trên đà phát triển mạnh...".
Đồng chí Đỗ Mười đã luôn hể hả nói với những người chung quanh: "Hai bên Nam Bắc cùng thi đua thế này, việc gì mà không xong? Phải không các đồng chí".
Bản tiến độ thi công của 2 bộ phận đóng cọc bản thép và đào "Hố móng" luôn luôn được đặt trên mặt bàn làm việc của đồng chí. Công việc của hai lực lượng đang thi công ấy sắp xong, chất lượng tốt, dù trời mưa gió gần như liên miên ác liệt. Bây giờ Ban phải lo tới vật tư nhưng trước hết cũng vẫn là nhân lực cho phần xây. Có thể coi đây mới sẽ là vào phần việc chính "Xây", đó là cái từ chuyên môn cũ đã quá quen gọi như thế. Cũng như "Hố móng" vậy, nội hàm của "Xây" bây giờ cũng đã khác nhiều. Bây giờ phải nói là "Đổ bê tông cốt thép" mới thật đúng khi muốn nói tới "Xây" những toa nhà lớn và hiện đại. Nay xây Lăng Bác gần như hoàn toàn là đổ bê tông cốt thép. Thật vậy, có tường gạch thì chỉ là mấy bức tường rất không quan trọng ở sau lưng hai khán đài và một vài phòng phụ dưới phần ngậm, tuy vậy gạch thì gạch vẫn phải dầy từ 50cm trở lên 150cm, mạch và trát vẫn phải bằng xi măng đặc biệt. Bởi vậy Ban xây dựng cùng Ban chỉ huy công trường đã phải tập trung vào chuẩn bị vật tư cho phần "Xây". Chủ yếu là bê tông cốt thép. Căn cứ vào thiết kế, trước sau phải có tới 2 vạn m3 xi măng cường độ 300 - 400. Cát khoảng 3 vạn m3, sắt hàn cũng hàng vạn mét... Về nhân lực cũng đã tập trung được thêm người, tuy nhiên số đông chưa có tay nghề chuyên môn phải cấp tốt cho đi học những lớp hạn: Thợ sắt, thợ nguội, thợ máy, thợ điện, thợ hàn, nhất là thợ mộc - thợ mộc làm cốt pha đồng thời làm và lắp cửa cho các phòng ngay từ khi đổ bê tông dưới phần ngầm. Đó là chưa nói tới thợ lắp máy. Ngay trong bước đầu của phần đổ bê tông đã cần tới thợ lắp máy để phối hợp. Thế đấy, chỉ gọi gọn là đổ bê tông, nhưng biết bao nhiêu là việc và bộ phận liên quan cùng phải tiến hành gần như cùng một lúc... Không ít phức tạp, không ít khó khăn. Công trường đã cho bổ túc và đào tạo các loại thợ, đã được 706 thợ trên tổng số 1.038 người từ các nới gửi về.
Không những đã cho đào tạo thợ, Ban chỉ đạo xây dựng cùng Ban chỉ huy công trường còn đã đề nghị Bộ Kiến trúc cho chuyển trạm trộn bê tông từ Ta Đa cách quảng trường 2km về ngay quảng trường để khỏi mất công vận chuyển xa. Cũng đã cho chuyển tới quảng trường cả xưởng gia công sắt thép, cả xưởng ván khuôn và một xưởng mới thành lập là xưởng thiết kế (có nhiệm vụ liền cánh với thợ Bê tông để giám sát và giúp họ làm đúng mọi quy cách và yêu cầu của các bản thiết kế). Tóm lại, mọi xưởng, trạm... đều đã được bóo trí gần như châu tuần gần ngay quảng trường để rút ngắn thời gian vận chuyển, và rút bớt cả xăng dầu cho xe cộ.
Thế rồi tới ngày 20 tháng 10 (1973) tấm cọc bản thép cuối cùng đã được đóng xuống khép kín như bức rào thép bao quanh khu vực toàn khu hố móng của Lăng. Như vậy là đã xong trước thời gian quy định mấy ngày. Ban chỉ đạo xây dựng và Ban chỉ huy công trường đã tới ngay gặp anh em để khen ngợi và chúc mừng. Có một phóng viên được tới công trường để đưa tin, hỏi mọi người: "Vậy cọc bản thép đâu cả?" Mọi người cười: "Cái hàng rào thép ngăn nước ngầm và đất lở ấy anh không trông thấy được đâu! Nó đã được đống cắm ngập hết dưới đất quanh hố móng rồi! Anh phóng viên cười chữa thẹn: "Vậy tôi chụp ảnh làm sao được nhỉ?".
Một tuần sau, đến lượt bộ phận đào "Hố móng" ở khán đài bên trái Lăng cũng hoàn tất để chuyển phần "Hố móng" đã xong (khán đài trái) cho đội quân "Xây" (đổ bê tông cốt thép) tới bắt đầu vào làm việc, theo kiểu xem kẽ liên hoàn, còn mình chuyển sang phần lễ đài phải...
Bữa nay các đồng chí lãnh đạo cũng lại tới khá đông đủ để nhiệt liệt chúc mừng lực lượng đào hồ móng đã thắng lợi và chứng kiến buổi đầu làm việc của đội quân bê tông cốt thép. Đây là bắt đầu bước vào phần rất quan trọng của toàn bộ công trình.
Trước hết mọi người đề ngắm nhìn diện tích toàn hố móng, mới thấy là rất lớn. Đào được, anh em công nhân đã phải bỏ công sức ra không nhỏ. Hố móng của hai cánh khán đài cộng lại dài trên 120 mét, cộng chiều rộng của khu giữa tức chính Lăng nữ (hình vuông mỗi bề 31 mét) thành một chiều dài của toàn Lăng là 150 mét có lẻ. Đã dài, lại còn sâu tới 6 mét, có chỗ 8 mét, giả dụ bỏ một ngôi nhà hai tầng xuống có thể ngập gần hết mái. Anh em đã phải đào hai con đường xuống và lờn cho xe tải tải lấy đất đem tới nơi sẽ xây bệnh viên nhi đổ cả một khối đất trên 1.200m3. Đang mùa mưa. Xe cộ, phương tiện dù đơn xơ những vẫn cũng thiếu then, nhất là cũ kỹ hay hỏng hóc luôn. Rất khổ.
Quay lại nhìn các máy móc lao động của cánh bê tông cốt thép đã chuyển tới, mọi người khá mừng thấy Ban xây dựng và Công trường đã "Giật gấu vá vai" đều về đây được hai cần cẩu khá lớn di chuyển trên đường ray-ký hiệu KD11.0J và hai cẩu nhỏ hơn, bánh hơi như ô tô. Dù nhỏ hơn nhưng hải cẩu này cũng được rất nhiều việc và thuận lợi chuyển vật liệu từ ngoài bãi hoặc kho xưởng vào công trình khá nhanh nhẹn. Cẩu lớn, cẩu bé, cùng xe lớn xe nhỏ... phương tiện tuy thật ra cũng chưa nhiều nhưng nếu so với phần đóng cọc bản thép và cả phần đào hố móng thì dẫu sao chuyển sang phần "Xây" này vật liệu thế y cũng đã là khá rồi, có thể làm được tốt. Tất nhiên nếu máy móc, xe cộ, vật tư nhiều và hiện đại hơn nữa thì vẫn "Ăn chắc" hơn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp người đang cùng Bộ CT trực tiếp theo dõi, chỉ đạo cuộc chiến ở miền Nam từng giờ thậm chí từng phút, tuy nhiên hôm nay đồng chí cũng cố bứt ra để tham dự buổi công trường chính thức tiến hành buổi đổ bê tông cốt thép đầu tiên, nói một cách dân dã đã quan là: chính thức bắt đầu vào "Xây" Lăng Bác. Đồng chí hiểu đây là phần việc hết sức quan trọng trong toàn bộ công trình Lăng Bác. Đồng chí đứng ngắm nhìn xe cộ, máy móc... và anh em công nhân nhiều loại như sắt, mộc, lắp máy... đã phải phối hợp ngay từ khâu bê tông này, rất đông, tấp nập và hăng hái, nhưng đồng chí Văn biết cũng không khỏi có chút hồi hộp. Đồng chí không khỏi liên tưởng tới trước khi mới trận mở màn tấn công quân Pháp ở Điện biên phủ khi xưa... Trận Him Lam và trận đồi Độc lập mở màn chính thức đại chiến dịch này liệu có thắng không? Không mở được "Cửa" này làm sao đưa quân tiến xuống được cánh đồng Mường Thanh? Tất nhiên "Mọi sự so sánh đều khập khiễng", nhưng đồng chí hiểu tâm trạng sôi nổi quyết tâm của anh em từ chỉ huy tới chiến sĩ trước cái gọi là "Chiến dịch" bê tông cốt thép này "Nhưng cũng thấy vẫn còn ít nhiều một chút lo lắng về vật tư, phương tiện và cả nhân lực... Quả thật ở nước ta chưa bao giờ gần đây lại có một công trình vĩ đại như thế này.
Đây là phần sẽ dựng lên "Hình hài" của toàn Lăng. Để bắt đầu vào phần "Xây" này, một đội được coi là mạnh đã được vinh dự "Xuất quân" đầu tiên. Đó là đội 7, tất cả anh em đều rất trẻ và khoẻ thuộc Tổng công ty 57 của Bộ Kiến trúc. Dễ nhận ra ngay anh chỉ huy chung của khối hơn ba trăm thợ bê tông vẫn là Anh hùng lao động số 1 của Bộ Kiến trúc: Vũ Tất Ban. Trước khi phát lệnh vào thi công, anh báo cáo với các cán bộ lãnh đạo ở trên xuống chỉ đạo và động viên, cùng các cán bộ là khách mời đứng vây quanh là: mọi công việc của bộ phận đổ bên tông đã chuẩn bị và hoàn toàn sẵn sàng. Anh nghiêm trang, hào hứng nhắc lại lời đồng chí Võ Nguyên Giáp vừa nới với anh em: "Kết quả của công tác bê tông cốt thép sẽ là nền tảng vững chắc cho toàn công trình Lăng Bác". Vì thế - vẫn theo lời anh - tất cả anh em đã hứa sẽ ra sức lao động hết mình và phải biết phối hợp tốt. Tiếp đó, anh tranh thủ báo cáo thêm đôi chút để các cán bộ cấp trên và khách báo chí nghe về một vài trong những đặc điểm lớn trong phần công tác bê tông này. Anh cho biết công tác bên tông cốt thép ở dưới phần ngầm của Lăng Bác ngoài nền, sàn, còn có các bức tường cũng bê tông cốt thép ngăn ra các phòng làm việc lớn nhỏ khác nhau thành những ô vương tương đối đều nhau để tạo sự đặc biệt kiên cố cho cả phần ngầm đỡ được hoàn toàn vững chắc phần nổi sẽ xây ở trên. Nhưng còn có một phần việc rất đặc biệt, đó là làm ở phần ngầm Lăng Bác còn phải tạo nên một vỏ bọc toàn phần ngầm. Vỏ là hai lần thép bọc, thêm một lần bê tông chống thấm dầy ở ngoài cùng là ba. Tất cả sẽ cùng tạo nên một vỏ bọc cực kỳ tín và cũng cực kỳ kiên cố. Như vậy phần ngầm của Lăng sẽ tuyệt đối không bị thấm nước, tuyệt đối không bị rò rỉ, đến mức giả dụ đem thả xuống nước, toàn phần ngầm này sẽ... nổi y như một con tầu! Do đó trong công tác bê tông cốt thép có nhiều loại thợ, trong đó thợ hàn bao giờ cũng thuộc những loại thợ quan trọng đứng hàng đầu. Một đặc điểm nữa là ngay trong khi đổ bê tông đã sớm cót những công việc đã phải sơm có sự hiệp đồng tốt với thợ lắp máy, cả thợ mộc nữa... Như thế đấy, nói đổ bê tông chỉ là nói gọn, còn thực ra rất phức tạp, nhất nhiều việc, và phải phối hợp với nhiều loại thợ khác, nên đòi hỏi người thợ bê tông phải rất cần mẫn, kiên trì vào tháo vát nữa. Mọi người còn đang rất thích thú nghe chuyện của anh đội trưởng bê tông thì có lệnh vào việc. Thế là trào lên như một làn sóng, các anh thợ áo quần lao động gọn ghẽ với những gương mặt đầy hưng phấn, chia ra từng nhóm, từng tốp bắt tay vào các việc khác nhau.
Thể rồi theo một hiệu lệnh, toàn thể bộ máy đổ bê tông to lớn bắt đầu vào việc. Không khí thật là rầm rộ.
Công việc mở đầu xem ra khá trôi chảy. Tuy nhiên dần dân về sau, với con mắt các nhà chuyên môn thấy không phải không có đôi điều, đôi chỗ còn phải được chú ý. Trước hết phần lớn anh em là thợ là thanh niên ở tứ xứ mới tuyển về và huấn luyện gấp chưa thể nói là thông thao. Công tác tổ chức, chỉ huy từ trên xuống dưới cũng chưa phải đã là hoàn hảo cả... Phần ngầm là nơi có mật độ cốt thép rất ớn, có thể lớn nhất trong toàn Lăng, và công việc phải xen kẽ và phối hợp giữa nhiều bộ phận và loại thợ khác nhau nên khá phức tạp, nên việc bố trí, tổ chức sản xuất phải được nghiên cứu rất kỹ, và rất tỉ mỉ hơn nữa mới khỏi chồng chéo hoặc phải đời chờ nhau, thậm chí phải chỉnh sửa lại mất thì giờ... Đó là những khó khăn về mặt nhân lực kỹ thuật. Vật tư cũng chưa phải là đủ. Ta vẫn còn đang phải dùng toàn bộ máy móc, xe cộ, cẩu lớn, cẩu nhỏ... mà ta có, đã cũ hoặc lạc hậu trong khi đó vật tư, công cụ lao động hiệu đại Liên Xô đã báo là thu xếp được rồi và đã gửi sang, nhưng vẫn chưa thấy ang.
Ông Mỹ chỉ huy trưởng công trình cùng hai chuyên gia Liên Xô luôn đi quan sát. Ba ông cùng thấy cái đáng quý nhất là tình thần anh em. Nhưng như thế chưa đủ. Đúng là anh em còn mới nên tay nghề chưa cao. Và cả số lượng nữa, vào việc mới thấy vẫn còn chưa thật đủ. Cứ như nhân lực này, công cụ cùng vật tư thế này, ba ông đều lo mùa mưa lũ sắp tới rồi, e rất khó hoàn thành công việc đúng thời gian như trên đã quy định. Ba ông cùng nhất trí là cần phải mạnh dạn báo cáo sớm điều này với các cấp lãnh đạo ở trên. Không nên quá lạc quan vội.
Ông Mỹ đã lên gặp Ban chỉ đạo xây dựng Lăng. Đồng chí Đỗ Mười cho biết: Ban chỉ đạo xây dựng cũng đã tiếp nhận được ý kiến của một số kỹ sư, kiến trúc sư của ta. Những nhận xét bước đầu đều tương tự như nhau. Nhưng Ban chỉ đạo chưa đưa ý kiến của mình ra vội, vì còn muốn xem xét kỹ thêm nữa. Nhận định không chính xác, anh em sẽ mất tinh thần. Nay có thêm ý kiến của cả ông Mỹ và các chuyên gia là rất tốt. Tuy vậy, đồng chí Mười yêu cầu các cán bộ có kỹ thuật, có kiến thức cần cùng nhau tiếp tục xem xét và suy nghĩ thêm, mặt khác Bạn sẽ lại gửi công văn sang Matxcova tiếp tục thúc vật liệu, và yêu cầu gửi thêm cả chuyên gia sang giúp ta. "Nói thật, các anh ạ, tôi cũng không khỏi lo: Mùa mưa 1974 mà đến sớn, ta vẫn chưa xong thì kéo... chết dơ cả với nhau!".
Qua một tuần.
Sang tới tuần lễ thứ hai. Trên công trình, vẫn chủ yếu bên khán đài trái nơi đang thi công bê tông cốt thép dù vẫn hăng say, rầm rộ, nhưng công việc ngày càng bộc lộ những trục trặc, mà nguyên nhân không khác lắm những gì mà ông Mỹ và các chuyên gia Nga, cùng một số cán bộ cũng đã sớm thấy: trước hết vẫn là thiếu nguyên vật liệu tốt, bên cạnh đó là trong kỹ thuật đã bộc lộ rõ hơn sự chưa thật giỏi của anh em thợ mới vào nghề trong thi công, cộng với sự chỉ huy, tổ chức cũng chưa nhiều kinh nghiệm trong những công trường lớn như thế này, gặp phải việc khó, phức tạp, có khi cán bộ phải cho dừng cả công việc để thảo luận lại, không phải chỉ một vài giờ mà có khi hàng buổi, hàng ngày với chuyên gia ban.
Tuy nhiên, một việc khá lớn đã bất ngờ xảy ra mới chỉ sau có 15 ngày thi công bê tông đã làm cho gần như bàng hoàn cả công trường, nhất là các cán bộ lãnh đạo và chuyên môn. Đó là đang lúc công việc đổ bên tông dẫu sao vẫn chưa có chuyện gì trục trặc thật đáng kể, thì "Đùng một cái", các cán bộ Bảo vệ kinh tế luôn có mặt ở công trường báo động: họ đã phát hiện thấy trong các đá đang dùng trong xây dựng ở công trường có phóng xạ quá quy chuẩn cho phép. Phóng xa? Có thật không? Phóng xạ? Ôi, thế thì... nguy rồi! Nhưng ở mức độ nào? Ai trả lời được? Ai xác định được?... Cả công trường xôn xao. Tất cả mọi việc phải tạm dừng cả lại. Đồng chí Trần Đại Nghĩa nhà khoa học lớn của Việt Nam - Chủ nhiệm uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước - lập tức được mời đến. Cũng không khỏi lo lắng, ông đã xem xét lại tất cả các mẫu đá làm bê tông. Nhưng Việt Nam khi ấy làm sao mà có được máy móc hiện đại để có thể cho ông kiểm nghiệm, và sớm xác minh, kết luận thật chính xác là có hay không phóng xạ, và nếu có thì tới mức nào?... Cuối cùng ông đã đề nghị với lãnh đạo cho mang mẫu đá sang Liên Xô nhờ bạn xác minh giúp, không có cách nào khác. ý kiến ấy đã được Bộ CT chấp nhận ngay.
Thế là ba cán bộ tin cậy đã được cử đi, với yêu cầu có kết luận càng nhanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Ba người là đồng chí Nguyễn Mạnh Kiểm lúc đó đang là vụ trưởng xây dựng - bộ Kiến trức, Nguyễn Trọng Quyển - trường phòng kiến thiết của Công Binh - người đã có nhiều đóng góp trong thời kỳ làm hai cơ sở đặc biệt 75A, 75B hồi Bác mới qua đời; người thứ ba là đồng chí San chuyên gia thí nghiệm vật liệu cũng bộ Kiến trúc. Ngay khi ba đồng chí đặc phái viên lên máy bay, đồng chí Đỗ Mười còn điện theo sang yêu cầu đại sứ Võ Thúc đồng phải hết sức giúp ba phái viên trong việc này.
Sang tới Nga, nhóm ông Kiểm đã đề nghị với bạn được làm việc ngay. Hết sức mừng: không hề chậm trễ, các đồng chí lãnh đạo của Liên Xô sốt sắng huy động và chỉ thị ngay cho các cơ quan, các tổ chức khoa học lớn nhất liên bang giúp đỡ tức khắc. Trước hết là viện Dupna nổi tiếng, tiếp đến là Viện khoáng sản hiếm, sau nữa với Viện du hành vũ trụ cơ quan khoa học tối quan trọng của Liên Xô. Ba ông phái phiên của ta thở phào: Đúng là "Đường dài mới biết ngựa hay", gặp khó khăn mới thấy rõ tình cảm quốc tế tuyệt vời của bạn. Nhóm ông Kiểm còn được tất cả các nghiên cứu sinh và các nhà khoa học của ta như giáo sư Nguyễn Văn Hiệu đang làm việc ở viện Dupna cũng hết lòng giúp đỡ... Tháng 11, nước Nga đã vào đông. Mùa đông Nga đầy gợi cảm, nhưng nhóm cán bộ của ta sang không còn thì giờ và cả lòng dạ nào mà chơi ngắm cảnh nữa. Cả ba ông đều có bạn Nga cả. Nhưng công việc thế này, tâm trạng thế này, cả ba đều không tới thăm một ai, chỉ chăm chăm đợi chờ trả lời của các viện lớn. Chờ đợi và chờ đợi. Lòng ruột lúc nào cũng như có lửa đôt. Cú phóng xạ thực hay không? Nếu có thì mức độ tới đâu? Những câu hỏi ấy ngày đêm vẫn như khoan vào đầu óc mấy anh em Việt Nam...
Trong khi ấy ở trong nước, từ trên xuống dưới cũng đều vô cùng bồn chồn, lo lắng. Các đồng chí trong Ban xây dựng gần như không mấy ngày không ra hiện trường để xem xét lại mọi việc. Quang cảnh bề bộn bời bời vẫn còn đấy, im lìm, vắng hoe - một sự vắng lặng như nghẹt thở. Lo và buồn không sao kết xiết.
Một tuần lễ qua đi, vẫn chưa có hồi âm. Rồi một tuần nữa sắp trôi đi, vẫn im bắt. Nỗi lo càng lớn, nỗi buồn càng tăng.
Thế rồi tới đúng đêm 19 tháng 11 năm 1973 một bức điện từ Maxcova bay về Hà Nội dựng tất cả mọi người dậy: "... Mức động phóng xạ hết sức thấp, không hề hấn gì. Đá của Việt Nam đang dùng có đủ những thông số kỹ thuật bảo đảm cho phép sử dụng ở các công trình xây dựng quan trọng nhất..." Mọi người chỉ còn thiếu nhảy lên, ôm lấy nhau, reo lên vì quá mừng.
Thế là mọi công việc trên công trường lại được tiếp tục. Lại có tiếng cười ran ran. Lại hết sức tấp nập. Lại vô cùng hăng say. Nhưng dẫu sao cũng thấy rất rõ là đã mất toi gần hai tuần. Vậy làm sao để cướp lại thời gian đã mất vì chuyện phóng xạ, vì cả những buổi thợ phải ngừng tay để cán bộ thảo luận lại về chuyên môn? Mà nay đã là cuối tháng 11- 1973. Vậy liệu có thể hoàn thành mọi việc đúng như yêu cầu của trên không? Câu hỏi ấy đã khá mau trở thành mối lo thực sự của không phải ít người mà đã thành của số đông, nhất là trong các cán bộ chuyên môn và cả các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy.
Ban chỉ đạo xây dựng và Ban chỉ huy công trường cùng các chuyên gia ban đã phải nhanh chóng cùng ngồi lại với nhau kiểm điểm mọi mặt và bàn tiếp tục công việc trên toàn Lăng nhằm làm sao cho được tốt hơn, nhanh hơn nữa. Mọi người thừa nhận tốc độ công việc đúng là có thể chậm so với yêu cầu thời gian do trên đề ra. Nhưng nguyên nhân: Không phải hoàn toàn do "Vụ phóng xạ". Mọi đồng chí đều nhất trí: chủ yếu vẫn là vật tư, thiết bị vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ, dù ta đã hết sức cố gắng với tinh thần không hề ỷ lại, thụ động. Nhưng cũng còn vì lực lượng thi công. Thật vậy, nay đã thấy nhân lực dẫu sau cũng chưa thật đủ, thêm nữa tay nghề nói chung là chưa cao vì hầu hết là thanh niên ở các nơi mới tuyển, mới vào nghề, mặc dù tinh thần lao động của anh em hết sức tốt. Thêm nữa, một số các cán bộ phụ trách các đội cũng tỏ ra có khá lúng túng, thậm chí xử lý chưa chuẩn trong công việc... Cơ quan đặc trách của bộ phận chỉ huy lắp máy của Công trường cũng đã có một báo cáo chính thức khẳng định như báo động: "Có khả năng công trình sẽ bị chậm, không hoàn thành đúng hạn, như quyết định của Đảng và Chính phủ là ngày 2 tháng 9 năm 1975".
Ban chỉ đạo xây dựng Lăng cùng Ban chỉ huy công trường đã cùng bàn rất kỹ mọi mặt, cuối cùng đã hoàn toàn nhất trí: một mặt phải đề nghị Bộ CT và Chính phủ và Bộ quốc phòng cho lực lượng quân đội sang tăng cường cho công trường. Mặt khác đề nghị lại cử ngay một phái đoàn sang Liên Xô đề nghị bạn gắng khẩn trương hơn nữa trong việc hoàn tất bản thiết kế tổng thể về Lăng Bác, đồng thời gửi tiếp vật tư và tăng thêm chuyên gia cùng công nhân kỹ thuật sang Việt Nam. Đặc biệt tiếp tục đề nghị bạn hối thúc các vật tư đang đặt làm ở các nước khác.
Bộ CT và Chính phủ đã hoàn toàn đồng ý với tất cả những đề nghị này. Bộ quốc phòng đã được yêu cầu phái ngay công binh sang công trình Lăng Bác. Còn đoàn đi Liên Xô do đồng chí Phùng Thế Tài phụ trách được yêu cầu lên đường gấp, ngay từ những ngày đầu tháng 12 (1973).
Bay đúng vào một ngày rét buốt, trần mây tới xám đè nặng chĩu, trời mù tốt, ông Tài thầm lo: khéo là điềm xui, công việc thất bại mất. Nhưng không ngờ mọi việc khá thuận lợi. Ông tài sang, đồng chí Nôvicốp phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô đã tiếp ngay và nhiệt tình bảo đảm Liên Xô sẽ gắng hết sức mình giúp Việt Nam hoàn thành Lăng Bác đúng thời hạn. Liên Xô sẽ thúc đẩy ngay các nước đã nhận làm máy móc cho Việt Nam. Mặt khác Liên Xô sẽ huy động hơn nữa những gì có thể huy động được trong cả Liên bang để gửi tiếp sang Hà Nội.
Về phía quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã tổ chức họp ngay Thường vụ quân uỷ và sau đó binh chủng Công binh đã nhận được đầy đủ chỉ thị và mệnh lệnh của trên. Căn cứ vào yêu cầu cụ thể đầu tiên của Ban chỉ huy công trường, Công binh cử một đại đội thợ sắt ưu tú, lành nghề nhất của đoàn công binh Hùng Vương đến Ba Đình trước.
Ấy là những ngày giáp Tết Giáp Dần. Toàn đội hăng hái hứa với chỉ huy Trung đoàn khi ba lô lên đường tới Ba Đình: "Sẽ gác lại niềm vui đón Tết ở đơn vị, gác lại cả chuyện về phép thăm gia đình. Được đi góp phần công sức xây Lăng Bác, đó cũng là niềm vui và hạnh phúc lớn của anh em chiến sĩ".
Đoàn xe đã đưa anh em đi vào những đường phố Hà Nội hồng thắm hoa đào và nhộn nhịp rừng người đi sắm Tết. Thành phố dường như không còn dấu vét gì nhiều của trận đánh B52 mùa đông 1972. Trên xe, lính ta lòng tràn ngập niềm vui và cả tự hào của những người lĩnh được đi làm nhiệm vụ thiêng liêng. Tới Quảng trường, đội công binh thợ sắt vào trình diện. Anh em đã được đón tiếp rất vui vẻ trong tập thể lực lượng công nhân đang đổ bê tông cốt thép. Tất cả mới, cũ cùng nhau hát vang những bài ca chiến đấu và cách mạng, rồi cùng hạ quyết tâm sẽ "Ăn Tết bê tông". Có nghĩa là sẽ cùng nhau làm việc cả ba ngày Tết.
Thế rồi đêm 30 Tết đã tới, trong khi những nồi bánh chưng réo sôi trên các bếp nửa đoàn tụ, vô cùng ấm áp ở quê hương xa, gần, và ở ngay khắp đô thành này, thì trên công trường anh em thợ bê tông - cả dân sự cả quân sự - cùng xắn tay sáo lên, bắt tay vào việc... Mưa bụi lất phất bay đầy gợi cảm đã làm cho tâm hồn anh em thợ và chiến sĩ như thêm dịu đẹp trong niềm vui của tuổi trẻ sẵn sàng dấn thân cống hiến. Dù cũng không khỏi đôi ba phút nào đó như thoáng một chút thoáng nhớ về những mái ấm gia đình nơi quê xe trong đêm trừ tịch này, nhưng cũng chỉ như một gợn mây qua vầng trăng rầm, ý chí vẫn vững vàng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vẫn như lửa đỏ... Tới khi tiếng pháo bắt đầu nổ ra xa gần khắp thành phố, toàn thể anh em thợ và chiến sĩ bê tông không ai bảo ai cùng nhau bật lên tiếng hát "... Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng..." rồi "...Một mùa thu qua cáhc mạng tiến ra..." ... Những tiếng hát trẻ trung, say sưa đến lạ lùng ấy vang lên bên các hố móng, bên các cột, mảng cốt pha và các giàn giáo đã bắt đầu dần dần nho cao. Đêm tịch đen xanh xiết bao dịu dàng dẫu sao cũng đầy thương nhớ, dù đó là những "Tiểu anh hùng của thời đại" đang sẵn sàng, tự nguyện dấn thân. Chung quanh họ là những ánh đèn đường và từ những ô cửa sổ tràn đầy ấm áp của những gia đình ở bên đường chiếu ra. Từ những ô cửa sáng đèn ấy còn bay ra cả những tiếng ho của cụ già, tiếng nói cười của người lớn, cùng tiếng bi bộ của trẻ thơ, với cả những giọng cười con gái trong sáng, đẹp như ngọc... Đó là một đêm giao thừa hoà bình không sao quên, mà những chàng trai và lính thợ đã trải quả như thế đấy.
Sáng hôm sau mồng một Tết. Tất cả anh em công nhân, chiến sĩ công binh, cũng như bất ngờ nhận được một lẵng hoa rất tươi của bácTôn Đức Thắng gửi tới tặng với dòng chữ: "Chúc mừng các cháu đã quên Tết, xa gia đình, lao động hết mình vì Bác Hồ vĩ đại của tất cả chúng ta".
Và sau đó ít ngày, Ban chỉ huy công trường đã đề nghị với bên quân đội chi viện tiếp cho 120 thợ sắt nữa. Vẫn với tuyền thống "Có ngay", mồng 7 Tết, Binh chủng công binh đã phái đi tiếp 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 vẫn của đã đoàn Hùng Vương. Hai đại đội này tới quảng trường sát nhập luôn với đội sắt đã sang trước, thành một tiểu đoàn hoàn chỉnh. Tiểu đoàn này đã được trao ngay nhiệm vụ kết cấu sắt cho việc đổ bê tông ở phần trung tâm, tức chính Lăng. Nơi đây anh em công nhân đào hố móng cũng vừa hoàn tất công việc, đã rút sang làm ở bên khán đài cánh phải.
Được làm việc ở ngay khu chính Lăng, anh em công binh rất phấn khởi. Cả tiểu đoàn tập trung ngắm nhìn và cùng tưởng như thấy Bác kính yêu đang từ chủ tịch phủ đi sang, vẫn với bộ ka ki bạc mầu và đôi dép lốp. Bác tươi cười bước tới với các chiến sĩ. Bác giơ tay vẫy và hổi: "Các cháu đấy ư? Vừa rồi ăn Tết ở công trường có vui không?"... "Đồng chí tiểu đoàn trưởng bỗng cất tiếng hát vang "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng..." Lập tức cả đơn vị cùng cất tiếng hát theo vang dậy, ngây nhất. Tất cả những ai trên quảng trường đều quay lại, ngắm nhìn các chiến sĩ, và dường như ai ai cũng cất tiếng hát theo... Mùa xuân, nắng ấm bỗng bừng lên làm cho tất cả những gương mặt - cả công nhân, chiến sĩ, cán bộ, nhân viên - cùng như sáng cả lên, đẹp hơn lên lạ lùng.
Không khí làm việc trên toàn quảng trường đã hoàn toàn trở lại tập nập, sội động như khi cưa xảy ra "Vụ phóng xạ" vừa qua. Cũng vừa dịp này (đầu tháng 3 - 1974) phái đoàn ông Tài từ Liên Xô trở về mang theo những tin mới bổ xung cho niềm vui chung: Ta đã nhận được của ban bản Tổng tiến độ thi công toàn Lăng rất quan trọng. Bạn cũng đã hoàn toàn đồng ý sẽ thúc đẩy mọi vật tư và tăng chuyên gia để giúp ta quyết đổ xong bê tông toàn phần ngầm của Lăng - dự kiến sẽ là ngày 30 tháng 5 - 1974).
Có được bộ bản Tổng tiến độ thi công là rất mừng.
Ngày 8 tháng 3 (1974) được lệnh của Bộ Quốc phòng, Công binh đã quyết định phái nốt cả Trung đoàn công binh Hùng Vương sang tham gia công trường xây Lăng Bác. Còn hơn thế nữa: theo lệnh đồng chí Văn Tiến Dũng Tổng tham mưu trưởng, Công binh báo sang 75808 là sẽ còn được tăng thêm một trung đoàn nữa: Trung đoàn 289 Bắc Sơn. Nhưng đơn vị này đang ở xa, sẽ về sau.
Và thế là chỉ huy ngày sau đó, đoàn Hùng Vương đã có mặt đầy đủ ở Ba Đình (cùng tiểu đoàn đã đến từ trước). Ban chỉ huy Đoàn đã nhận nhiệm vụ cụ thể cả trên bản vẽ, cả trên thực địa. Rồi sau khi rất nhanh chóng ổn định nơi ăn chốn ở tại những căn lán tạm ở ngay bên quảng trường, toàn đơn vị bắt đầu vào việc.
Ấy là một buổi sáng mùa xuân. Trời trong sáng và ấm áp. Mẻ bê tông đầu tiên của chiến sĩ Hùng Vương đã đổ xuống hố móng ở khu trung tâm (chính Lăng) trước sự rất hài lòng của một số đồng chí lãnh đạo ở trên tới chứng kiến, và tất cả anh em công nhân bên Kiến trúc.
Nhưng rồi mấy hôm sau trời chuyển dần sang nắng. Cái nắng mới bao giờ cũng thường rất khó chịu. Mồ hôi như suốt ngày. Chiến sĩ công binh Hùng Vương như vật lộn với cát, sỏi, xi măng... dưới cái nắng chớm hè mà đã gần như cháy lửa. Nhưng vẫn hết sức kỷ luật, hết sức gan góc, với tinh thần trách nhiệm rất cao của những người chiến sĩ trong quân ngũ đã được rèn luyện, nên năng xuất không hề giảm. Anh em đã làm gần như không nghỉ.
Rồi sau mấy ngày nữa, đoàn công binh Bắc Sơn rầm rập kéo tới, đúng như chỉ thị của Tướng Văn Tiến Dũng. Số lượng lính lao động ở đây đã khá đông nay càng thêm đông. Khí thế chung do đó cũng lên cao hơn. Đồng chí Đỗ Mười đã ra tận nơi, đứng trên con đường làm tạm bằng những mảnh bê tông ghép cho các xe cần cẩu, xe tải chạy quanh toàn khu hố móng. Đồng chí ngắm nhìn quang cảnh đông đảo, tấp nập chưa từng có ở đây, mầu áo xanh của lính hoà với mầu áo xanh thợ, lòng ông không khỏi trào lên niềm vui và tin tưởng. Nỗi lo chậm thời gian âm thầm lẩn quất trong lòng ông hơn tháng nay chưa dám thổ lộ cùng ai, nay dường như không còn nữa. Chợt một trợ lý vội vã tới báo cáo: Đồng chí Vũ Nguyên Giáp lại tới...
Hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Đỗ Mười cùng đi xem cả ba khu: khu chính giữa Lăng và hai khán đài ở hai bên. Các đồng chí cũng hoàn toàn đồng ý với Ban chỉ huy công trường về sự phân công gọn, khi đã có nhân lực mạnh: Anh em công binh được phân công tập trung dứt điểm ở giữa Lăng cùng hầm đặc biệt. Hai khán đài ở hai bên được giao hoàn toàn cho anh em công nhân thuộc bộ Kiến trúc, đồng chí Đỗ Mười báo với đồng chí Vũ Nguyên Giáp là Ban chỉ huy công trường cũng đã điều tới phối thuộc cho anh em một số các kíp thợ mộc, thợ thép hình, thợ giàn giáo và cả mấy cán bộ trắc địa...
Đồng chí Võ Nguyên Giáp trước khi ra về đã dừng lại trực tiếp đứng nói chuyện với anh em thợ và công binh ít phút. Đồng chí báo cho anh em biết cuộc chiến trong Nam đang đi tới giai đoạn quyết liệt nhất và cũng là giai đoạn quyết định. Rất có nhiều triển vọng lớn...:
Anh em công nhân và chiến sĩ lắng nghe và hết sức vui mừng vừa rất cảm động khi thấy "Anh Văn" - "Bác Văn" đang là người gánh vác trách nhiệm cao nhất trong quân đội, hết sức bận, trong những ngày hết sức sôi động này vẫn cố dành thì giờ lại ra đây động viên anh em thợ thì quả thật là vô cùng quý báu. Tất cả cùng vui vẻ đồng thanh chúc sức khoẻ đồng chí và hữa sẽ triệt để hưởng ứng đợt thi đua đang diễn ra với tên gọi "Chiến dịch đổ bê tông phần ngầm".
Giữa lúc đó một tin vui nữa bay về như góp thêm phần động viên mạnh mẽ tinh thần em anh công nhân và chiến sĩ: khá nhiều vật tư của Liên Xô đã cặp bến Hải Phòng...
Người ta thường nói "Phúc bất trung lai", nhưng ở đây, lúc này thì quả là đã có sự "Trung lai". Nhưng vẫn chưa biết hết: lại còn thêm một tin vui nữa: Một đoàn xe chở gỗ của Nam bộ xa xôi đã ra tới Hà Nội! Đoàn do đích thân bà Nguyễn Thị Định phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam chỉ huy. Mấy tháng trước đã có gỗ và đá quý của Quảng Nam Đà Nẵng, rồi cả gỗ quý của đồng bào Tây nguyên. Bây giờ đến gỗ quý Nam bộ, niềm vui lại bao trùm khắp công trường.
Hôm ấy, các đồng chí lãnh đạo đều đã có mặt từ sơm. Tuy là đón gỗ quý, nhưng ai ai cũng nghĩ, cũng coi đây là đón đại biểu của quân dân miền Nam ruột thịt đã vượt qua bao máu lửa ra đây viếng Bác...
- Xe đã tới kia rồi! Những tiếng rao vang cất lên từ ngoài xa.
Tất cả những người chò đón đều rất mừng rất vui, không khác gì những tháng trước đã đón các đoàn gỗ, đá quý từ Quảng Đà - Non Nước, khu 5 và Tây Nguyên ra dâng Lăng Bác.
Thế rồi một đoàn hơn chục chiếc xe Mỹ to đúng chở đầy gỗ cũng từ từ tiến vào quảng trường. Trên xe còn có cả những cán bộ, chiến sĩ đội mũ tai bèo, mặt còn xanh mầu cây rừng, mầu địa đạo, và xạm khói súng, khói bom. Đoàn xe dừng lại trước hội trường Ba Đình bên kia đường Hoàng Diệu. Cũng như khi đón gỗ và đá quý của Quảng Nam - Đà Nẵng và gỗ quý Tây Nguyên trước đây, lễ đón gỗ quí và cán bộ chiến sĩ Nam bộ làm trong hội trường Ba Đình nơi được coi là lớn nhất lúc đó. Lễ cúng dản dị nhưng tràn ngập tình thương yêu và trân trọng. Đã nhìn rõ hơn những gương mặt anh hùng của các chiến sĩ từ trong máu lửa xa nhất lần đầu ra thủ đô. Đây là bà Nguyễn Thị Định anh hùng mà hiền hậu, phó chỉ huy Quân giải phóng miền Nam. Đây là các cán bộ, chiến sĩ miền đông anh dũng. Đây nữa, các cán bộ, chiến sĩ miền tây tuyệt vời... Và cũng đã nhìn thấy rõ hơn những cây gỗ quý. Quý nhất là Nu đã nổi tiếng cả trên thế giới Bên cạnh Nu, trên các xe còn nhiều thứ gỗ quý khác như Trắc đen lĩ bền vô hạn, vân đen óng ánh, Trắc nghệ mầu nâu tươi cũng có vân đẹp lượn xoáy. Hương Tía thì mầu hồng, vân như mây vờn. Và Mun đen vân lại như sóng dậy. Sơn huyết tía đỏ, Kim dao vàng mịn... Tất cả 16 thứ gỗ quý hiếu khác nhau.
Rồi bà Định đứng lên bày tỏ mọi nỗi niềm vui sướng của ba con và bộ đội trong chiến trường xa xôi được ra tới Thủ đô của cả nước, dâng lênBác mọi số gỗ quý này để xây Lăng. Bà cho biết nhân dân trong đó đã ước mong từ lâu là rồi đây toàn thắng Bác sẽ vô Nam cho con cháu được gặp Cha già dân tộc muôn vàn yêu kính. Nhưng nay Bác đã nằm xuống, từ xa xôi ngàn dặm thương tiếc Bác khóc như đã cạn hết nước mắt... Nay bà con cô bác và bộ đội không tiếc sức, không tiếc cả thân mình đi tìm gỗ quý đem ra góp phần xây Lăng, để rồi sau đây toàn thắng - mà chắc cũng không còn xa lắm nữa để bà con cô Bác sẽ ra lần lượt được ra bắc, dẫu sao cũng còn được ngắm nhìn dung nhan của Bác...
Sau đó cùng ngồi quây quần, theo yêu cầu của mọi người, bà Định đã nói lại về mọi nỗi gian lao mà bà con cô bác cùng chiến sĩ đi tìm gỗ quý: Đã có trường hợp bộ đội phải tổ chức diệt đồn địch để mở đường vào rừng mới lấy được gỗ. Nhiều nơi khác, già trẻ, gái trai trong các ấp đeo bương nước, cơm vắt, muối đùm xuyên rừng, leo núi, rất nhiều ngày vất vả, đói khát, lại còn bom đạn địch... Có nói phải nổ mìn phá đá mà leo lên tìm gỗ, có khi phải đua cả xe ủi vào làm đường cho gỗ ra, ngay bên đồn thù... Khi tới đường Trường sơn đã có máu đổ vì bom. Nhưng cũng may là mùa khô nên xe gỗ đi không đến nỗi quá gian nan. May hơn nữa, có chặng anh em bộ đội cao xạ còn kéo cả pháo đi theo để bắn máy bay địch bảo vệ đoàn, bảo vệ gỗ. Có nơi bộ đội công binh còn bắc cả cầu phao lớn cho xe, cho gỗ sang sông... Tóm lại, với tất cả lòng mình và cả máu mình và được các chiến sĩ Trường Sơn hết lòng giúp đỡ, bà cô bác đã kiếm tìm được gỗ tốt và đã ra được tới đây, bà tin vậy và hết sức xúc động. Đồng chí Đỗ Mười đã thay mặt anh em toàn công trường nói lên những lời gan ruột nhất với đoàn và cũng là với tất cả bà con cô bác trong chiến trường xa xôi máu lửa.
Rồi còn tiếp chuyến gỗ nữa của riêng các chiến sĩ Trường Sơn. Đã ngày đem đổ mồ hôi và cả xương máu đổ ra giữ cho được con đường chiến lược sống còn, các chiến sĩ ta cũng vẫn hết lòng tìm kiếm gỗ quý gửi ra góp phần xây Lăng Bác. Gỗ Trường Sơn chủ yếu là gỗ Trắc đại thọ, cũng một loại gỗ rất quý...
Như thế gỗ đã về khá, có thể cho anh em thợ xẻ nổi tiếng của Nam Hà, Hà Tĩnh xúc tiến ngay việc xe ra những loại gỗ thích hợp để làm những cửa ra vào khác nhau trước hết cho phần ngầm, rồi còn phải làm cho phần nỏi, tổng cộng đã biết trước là 200 bộ lớn, nhỏ, trong đó cửa cho hầm đặc biệt là nặng nhất, gỗ đã hết sức răn, bền tựa như thép, lại còn phải ba lần của để có thể chống bom và đạn, cả hơn ngạt. Một bộ cửa ấy nặng tới hàng tấn...
Trong khi đó mọi công việc chủ yếu vẫn là tập trung, dồn hết sức để đổ bê tông cho xong phần ngầm. Lãnh đạo ở trên đã nhắc lại: "Đổ xong bê tông phần ngầm, đã có thể coi như cơ bản hoàn thành công tác bê tông của toàn Lăng". Như vậy nếu tính từ khi đổ những gầu vữa bê tông đầu tiên tới nay đã hoàn tất bên khán đài cánh trái và đã sang khu giữa. Nay đã là tháng 3 - 1974 dù chỉ còn hơn 2 tháng nữa phải hoàn tất phần ngầm toàn Lăng, khối lượng còn khá lớn, nhưng rất hay là đã có thêm đoàn HùngVương, cả đoàn Bắc Sơn nữa - những đơn vị mạnh của công binh tới tăng viện, vậy làm sao mà công trường sẽ không thể hoàn thành tốt chỉ tiêu? Nỗi lo dù có như lửa đốt, nhưng niềm tin đã có cơ sở vững chắc mới. Móng bè phần đáy đã xong, thép đan dầy tới 20cm, móng sỗ vững như bàn thạch "Anh em cùng tập trung sức hoàn thành thật tốt toàn bộ vỏ thép toàn phần ngầm Lăng. Rồi tiếp đó là đổ bê tông cốt thép (xây) hệ thống tường ngăn các loại...
Đã được biết qua bản các thiết kế, nhưng bắt tay vào hoàn tất vỏ thép quân ta mới thấy rõ hơn: Đây quả là một công trình đặc biệt mà anh em chưa bao giờ từng thấy, từng làm. Đúng là anh em thợ trong nước chưa hệ thấy công trình nào có phần ngầm lại có cả vỏ thép hai lớp cho cả phần ngầm như thế này. Không những vỏ ngoài đã toàn bằng thep tấm dày từ 6 ly tới 8 ly, phía ngoài vỏ thép ấy còn có một vỏ bê tông mác 300 dày 20cm. Vỏ thép bên trong có khác đôi chút: Chỉ làm ở khu hầm đạc biệt và hành lang lối thoát ra ngoài. Tuy nhiên, tất cả sẽ bảo đảm tuyệt đối, hoàn toàn cánh nước, chống thấm dù cho giả dụ như có lụt lội, động đất. Trong việc làm vỏ thép công tác kết cấu sắt thep và bô tông đã quan trọng, nhưng việc hàn ở phần này còn quan trọng hơn, phải do những tay thợ hàn thật "Cự phách" đảm nhiệm.
Mấy hôm bắt tay vào làm vỏ bọc thép phần ngầm, trời lại đổ mưa. Anh em cứ "Đầu ráo áo ướt" lục tục làm việc dưới mưa rôi. Rất cảm thông, muốn chia xe sự vất vả và cũng để động viên, các đồng chí lãnh đạo ở trên đã đến, khoác tạm những tấm áo mưa của lính, của thợ, đúng giữa trời trò chuyện với anh em.
Những người lính thợ cũng đã tập trung hết sức lực vào hoàn tất móng bè ở khu giữa của Lăng và hầm đặc biệt. Anh em công nhân bên Kiến trúc cũng tập trung vào dứt điểm ở khán đài bên phải. Như ta đã biết móng bè ở khu giữa và hầm đặc biệt thép hết sức kiên cố, thép đan dày đặc đến mức bản vẽ không mô tả nổi, các cán bộ, kỹ sư phải chỉ dẫn trực tiếp trên thực tế... "Từ cha sinh mẹ để đến nay mới thấy những bộ móng bè ghê gớm như thế này".
Hiện trường càng trở nên đông đúc, cả lĩnh cả công nhân. Có thể là hơn quá đông. Ai ai cũng như muốn tranh cướp thời gian để hoàn thành nhiệm vụ đúng với yêu cầu của trên. Màu áo lính đã hoà thêm nhiều với màu áo xanh công nhân. Tất cả cùng tạo nên một quang cảnh tấp nập, ồn ào với tiếng các máy trộn bê tông làm việc hết công xuất, tiếng gầm gào của đủ các loại xe tải, cùng tiếng nghiến, rít của các cần cẩu lớn nhỏ... tất cả tạo nên một vùng âm thanh dữ dội, căng thẳng, mà người ta không biết gọi là gì hơn: "Giông bão công trường".
Nắng vẫn chói chang. Các khuôn mặt chiến sĩ và công nhân đều nhễ nhại mồ hơn. Các cán bộ chỉ huy, các kỹ sư, kỹ thuật viên là phái viên hiện trường cũng mặt mày đỏ gắt nhưng ai cũng như ai vẫn như say trong công việc.
Rồi mấy tuần sau hệ thống mong bè để đổ sằn cũng đã xong cùng "Vỏ thép" "Con tầu" đã được xét nghiệm với kết luận rất tốt. Công việc tiếp của lĩnh và công nhân là kết sắt, thép và lắp các ván khuôn để đổ bê tông hoàn tất việc "Xây" các bức tường ngăn chia các phòng lớn nhỏ có mục đích sử dụng khác nhau. Bây giờ chính là lúc này anh em thợ mộc bắt đầu vào cuộc sâu cùng với anh em đổ bê tông để lắp đặt 100 bộ cửa cho tất cả các phòng dưới phần ngầm, nặng nhất, khó nhất là ba bộ cửa phải lắp thành ba lớp ở cửa hầm đặc biệt phòng chiến tranh đã ba bộ mà bộ nào cũng phải là gỗ như thép và dầy nặng mỗi bộ hàng tấn, vận chuyển và dựng lên phải toàn bằng máy hết... Cũng là lúc những anh lính công binh chuyên phụ trách lắp máy cũng vào phối hợp giúp anh em đổ bê tông đặt sao cho hoàn toàn chính xác, đúng vị trí các sắt chờ và chôn sẵn các cấu kiện để sẽ đặt máy được chính xác; đồng thời chửa ra các lỗ lớn, nhỏ trên cấc bức tưởng để cũng rồi sẽ cho các hệ thống ống hơn, giây điện sẽ luồn qua đi khắp phần ngầm rồi lên khắp phần nổi, lên tới tận máy Lăng... Tổng các hệ thống các loại đường giây sẽ dài tới mấy nghìn mét cộng lại. Anh em lính, thợ đã gọi vui đó là "Hệ thống các tĩnh mạch, động mạch của toàn cơ thể Lăng".
Đây là giai đoạn đã có thể coi là giai đoạn cuối của chiến dịch phần ngầm với chẳng ít phức tạp, khó khăn - mà chủ yếu là về kỹ thuật. Do đó thợ càng phải tập trung đầu óc, phải nỗ lực hơn nhiều. Đây cũng là giai đoạn không chỉ cán bộ lãnh đạo và chỉ huy rất quan tâm tới việc động viên và giúp đỡ cụ thể cho anh em thợ làm việc tốt mà anh chị em nhà bếp của công trường cũng muốn giúp anh em giảm bớt phải đi lại mất thì giờ. Vì vậy nhà bếp đã có sáng kiến mang cơm ra tậm "Chiến hào" cho lính và thợ. Những anh chàng lém được dịp thả sức "Cù" gây cười cho mọi người. Nhiều cô gái nấu cơm không thua kém "Khoa đấu hót" cũng tỏ ra hết sức duyên dáng, nên những bữa ăn "Đầu bờ" lại hoá ra rất thú vị; công nhân và lĩnh trẻ đều rất vui.
Thế rồi đúng ngày 19 tháng 5 - 1975 phần ngầm đã hoàn thành. Có thể coi đây đúng là "Một con tầu kỹ thuật", hoặc "Một nhà máy ngầm hiện đại" đã được làm xong. Tất cả các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, cùng cán bộ các phòng thí nghiệm, kiểm tra, thẩm định chất lượng, và các kỹ sư đủ loại đều đánh giá toàn bộ phần ngầm đã được "Xây" rất tốt. Chỉ riêng một chi tiết cũng đã đáng được ngợi khen: Đó những chỗ rỗ trên mặt bê tông, tỉ lệ ở đây chỉ là 2,2% trên hơn 10.000 m3 (tổng diện tích bê tông toàn Lăng dự kiến là 20.000 m3). Đây là một tỉ lệ rỗ thấp lý tưởng, chưa từng có ở miền bác Việt Nam. Rất vui, các chiến sĩ công binh và công nhân Kiến trúc chỉ còn thiếu đốt phảo ăn mừng.
Công việc xây lắp bắt đầu chuyển lên phần nổi. Không phải "Lễ" khai mạc nữa, vì đây là công việc tiếp nối. Nhưng không khí vẫn thật nhộn nhịp và rất vui. Không ít anh chiến sĩ đã bốc lên, tuyên bố: "Đã làm được cái phần ngầm, lên phần nổi chẳng còn cái gì đáng lo lắm nữa". Nhưng có anh tỏ ra thành thạo "Kê" lại ngay: "Bạn chưa biết cái phần ốp đã mầu các loại và trang trí trên phần nổi thế nào đâu. Kỹ sư, kiến trúc sư người ta đã tính rồi: thời gian việc ốp đã, trang trí sẽ ngang bằng phần đổ bê tông cốt thép đấy!" Anh kia cãi lại: Ốp đá, trang trí, đúng là khó rồi, nhưng đã có cánh chuyên môn. Mình bê tông cốp théo chuyên "Ăn no vác nặng", việc quái gì phải quan tâm nhiều tới chuyện đó"... Bỡn nhau thế cho vui thôi, chứ không phải quá chủ quan đến nỗi không ai biết lo là gì. Họ đều hiểu chỉ riêng cái việc đổ bê tông những chiếc cột chung quanh phòng Bác ở ngoài hành lang trên tầng hai đã phải mịn như thể nào, thẳng tắp lên tận mái không sai một lý như thế nào, và bốc góc mái trên cùng hơn vát nhẹ cũng phải thật cân đối và đầy gợi cảm như 4 câu thơ về quê hương Việt Nam như thế nào... Đấy cũng là chất thẩm mỹ ở ngay trong công tác bê tông cốt thép, chưa nói gì tới ốp đã mầu và trang trí khác. Thấy anh em lính thợ đã biết quan tâm tới phần thẩm mỹ khi lên phần nổi, các cán bộ phụ trách nhất là các kiến trúc sư tỏ ra rất vui. Tất nhiên các cán bộ, các kiến trúc sư, kỹ sư cũng hiểu là vẫn cần phải nhắc nhở anh em lên phần nổi cũng còn những khó khăn phúc tạp nữa như thợ bệ tông vẫn phải phối hợp tốt với thợ ộc và anh em công binh chuyên lắp máy, không khác dưới phần ngầm nhiều lắm đâu.
Quang cảnh thi công trên phần nổi cũng có cái khác: tất cả vật tư phương tiện, nhất là người đều ở trên mặt đất hết, nên chung quanh càng bề bộn nhưng không khí lao động dường như cũng nhộn nhịp và tập nập, đông đúc hơn dưới phần ngầm.
Lính trẻ vui vẻ tếu táo "Tuyên bố": "Bây giờ mới rõ mặt anh hung! Dưới phần ngầm dẫu sao vẫn cứ như ở trong hầm!"...
Cùng dịp này, việc cải tạo nâng cấp quảng trường Ba Đình cũng ráo riết hơn, cụ thể hơn trước. Lẽ ra đã phải tiến hành mạnh việc này từ sơm, nhưng vì mấy tháng đầu thi công Lăng Bác gặp nhiều khó khăn trong kỹ thuật và nhân lực. Tuy nhiên cũng đã thành lập được Ban kiến thiết, tập trung được gần 100 cán bộ như nhiều người đã biệt, và anh em cũng đã tiến hành được khá nhiều việc như: đo đạc, khảo sát lại toàn bộ quảng trường cũ về thổ nhưỡng, về các hệ thống cống rãnh, nước ngầm, hệ thống điện và các hệ thống phát thanh, truyền hình, thông tin... Cả phương ấn cụ thể mở rộng quảng trường ra 3 ha - sau có thể tới 4ha.. cũng đã được bước đầu được lập ra. Đến khi Liên Xô gửi sang bản Thiết kế cơ bản của bạn về tôn tạo quảng trường Ba Đình thì phần ngầm của Lăng đã sắp xong, Ban xây dựng Lăng thấy đã có thể và phải nghĩ tới việc phải xúc tiến mạnh mọi mặt để có thể nhanh chóng đi vào thi công ở Quảng trường không thể để chậm.
Do đó, Ban phụ trách xây dựng Lăng đã đề nghị với Bộ quốc phòng về sự cần thiết tổ chức ngay một Ban kiến thiết và đã tập trung được 75 người - 85% thành viên là người của Phòng sân bay - không quân. 15% là người của các Bộ Vật tư, Tài chính, Xây dựng... Trưởng ban đã được chỉ định là đồng chí Nguyễn Văn Tưởng (quân đội). Ban Kiến thiết cũng nằm dưới quyết chỉ đạo của Ban xây dựng Lăng. Ban Xây dựng Lăng đã quyết định: phải khởi công. Công nhân đã được tập trung về khá nhanh và khá đông và đã bắt tay vào những việc cần làm ngay như dọn dẹp mặt bằng, tháo dỡ những gì cần được sớm tháo dỡ để mở rộng quảng trường và thi công. Cũng vừa lúc bên Lăng Bác công việc "Xây" bắt đầu chuyển cả lên phần nổi một cách tưng bừng, phấn chấn.
Chuyển lên phần nổi, anh em công nhân và cả cán bộ để có nhiều cảm xác khá mới.
Lúc đầu, khi mới nghe nội dung chủ yêu trên phần nổi là "Xây" các bức tường cùng các cầu thang lên xuống và mái Lăng, quân ta nghe có cảm tưởng như khối lượng công việc "Xây" trên này ít nặng nhọc và phức tạp hơn dưới phần ngầm. Nhưng nay bắt tay vào làm thì thầy phần nổi cũng không hề dễ dàng. Trước hết kích cỡ các phòng trên phần nổi nhiều khi không đồng đều, vì trên này các phòng hầu hết có mục đích sử dụng khác nhau như văn phòng, phòng khách, phòng trực máy... nhất là phòng Bác. Do đó ở phần nổi các bước tưởng thường không theo một quy luật rõ ràng và nhất định, từ đó dẫn đến việc xây lắp sẽ có những yêu cầu khó khăn, phức tạp.
Tuy nhiên đặc điểm nổi rõ nhất của tầng nổi khác với tầng ngầm là yêu cầu về thẩm mỹ rất cao. Tính mỹ thuật ấy đã được thể hiện ở kiểu dáng trong thiết kế, tuy nhiên yêu cầu về thẩm mỹ công trình còn phải được thể hiện tốt trong khâu xây dựng của những người thợ bê tông, thợ máy... Hiểu ra, anh em thợ hoàn toàn đồng tình. Lăng Bác phải rất đẹp - đẹp nhưng không hề giống như các chùa chiền trong nước, hoặc Lăng tẩm, lâu đài cổ xửa ở nhiều nơi trên thế giới. Lăng Bác sẽ có một vẻ đẹp khác: một vẻ đẹp vừa mang dáng vẻ hiện đại vừa mang tính dân tộc; bề thế mà tao nhã, uy nghi mà giản dị, gần gũi, y như phong cách của Bác. Và anh em đã lao vào làm việc, người nào cũng làm rất tốt nhiệm vụ của mình với niềm phấn chấn mới. Một số anh em đã cùng có một cảm giác tưởng nhất rất lạ mà có thực; cảm thấy dường như lên đây đã được gần Bác hơn khi còn làm ở dưới phần ngầm. Lên tới đây như sẽ sớm thấy được Bác về. Cảm giác ấy làm cho mọi người rất vui.
Vui nữa là cũng vừa dịp bắt đầu lên phần nổi có tin 2 vạn tấn đá Hoa cương - thứ đá rất quý hiếm - do Liên Xô giúp đã tới Hải Phòng. Đó là loại đã học cực rắn, chịu được sức nóng mặt trời miền nhiệt đới, lại tuyệt đẹp với sắc mầu và vân hoa khá độc đáo. Chu đáo, bạn đã xẻ, đã mài thành những mảnh đá vuông vức, lớn, rất đẹp sang Việt Nam chỉ có việc ốp, không còn phải lo gia công gì thêm nữa. Đã hai vạn tấm đá ấy bạn còn gửi thêm cả đá Cẩm thạch. Cùng tới công trường còn có cả một kíp thợ chuyên ốp đá Hoa cương chuyên nghiệp của bạn. Dịp này nhà máy cơ khí An Dương cũng báo cáo đang miệt mài tiếp tục xe, mài đá ốp các loại do các địa phương trong nước gửi về. Đã sản xuất được cùng gần vạn tấm các loại với sắc mầu và vân hoa khác nhau để gửi lên Lăng...
Tin đá Hoa cương cùng đá Cẩm thạch Liên Xô đã sang cùng cả đội công nhân óp đã ấy đã được Ban chỉ huy công trường loan báo cáo cho anh em thợ cùng biết, cùng vui và cũng là để thúc đẩy công việc xây phần nõi nhanh chóng. Đá mầu đã sẵn sàng cũng có nghĩa: chỉ còn chờ có bên tông.
Quả nhiên, tin vui này đã làm cho toàn công trường càng them hào hứng.
Phần nổi của Lăng có hai khán đài hai bên - mỗi khán đài dài 67 mét có các bậc ngồi từ thấp lên cao. Ở giữa hai khán đài ấy là khối chính Lăng hình vuông, mỗi bề rộng 30 mét, cao 21 mét 50. Liền ngay phía sau khối chính giữa ấy là một hầm đặc biệt để phòng chiến tranh... Theo thiết kế, khối chính Lăng đượ xây giật thành ba cấp theo truyền thống kiến trúc cổ xửa của ta xưa. Cấp thứ nhất ở dưới cùng là cấp lớn nhất, được coi như là bệ Lăng, cũng giật làm ba cấp nhỏ. Ở cấp nhỏ thứ nhất của bệ Lăng có cửa chính ra vào trông ra hướng đông. Qua của này vào là một tiền sảnh rộng rãi. Hai bên sảnh là các phòng khác, phòng làm việc và một số phòng kỹ thuật. Cấp thứ nhỏ hai của bệ Lăng được kết cấu làm lễ đài thay cho lễ đài cũ đã được dỡ bỏ. Đây sẽ là nơi Chính phủ và Trung ương Đảng sẽ tới dự và chủ trì những cuộc mít tinh và diễu binh lớn. Lên đến cấp giật lớn thứ hai, Lăng được xây thót lại nhỏ hơn phần bệ. Tầng (cấp) hai này là tầng (cấp) trọng điểm và thiêng liêng nhất, bởi ở giữa tầng này là phong trung tâm cực kỳ quan trọng - nơi sẽ đặt thi hài Bác. Từ cầu thang dưới sảnh đi lên phòng này, sẽ thấy trước hết hai có hàng cột xi măng cao tưới trần mầu đen tuyề, dài, và mỏng giống như những băng vải đen đều đặn ở hai bên tả hữu của phòng từ trên trần rủ xuống. Ở giữa phòng rộng và cũng là ở giữa hai hàng "Băng tang" này là một bệ đá hoa cương - một bệ hoa cương hết sức trang trọng - nơi sẽ đặt giường Bác nằm, với khung kính vũ trị ở trên hết sức tôn nghiêm. Viền chung quanh bệ Hoa cương là một đường diềm cũng bằng đã quý trạm trổ hình các hoa sen - loài hoa mà Bác hằng yêu thích. Sen cũng là tên quy Bác. Ở bên ngoài phòng trung tâm này là hành lang chạy chung quanh với những hàng cột vuông, cao, đỡ lấy mái Lăng ở trên. Những hàng cột tạo nên ở mỗi mặt có 5 khoảng cách gợi lên hình ảnh nhà 5 gian truyền thống của quê ta... Tóm lại, tầng hai của Lăng là trọng điểm, mà phòng Bác là trọng điểm của trọng điểm. Đến cấp giật lớn nhất thứ ba của toàn Lăng là tầng mái. Mái Lăng chỉ cao, dày có 3 mét, cũng giật cấp nhưng nhẹ nhàng, nhưng chỉ có lớp mái dưới là xoè ra với bốn góc cũng hơn vát lên theo phong cách xưa, tạo thêm vẻ dân tộc thanh thoát và trang nhã. Trên tầng mái này cũng có đặt máy móc, chủ yếu về thông hơi thông giá, và có cả thang máy để vận chuyển các thứ vật liệu xuống tại tận phần ngầm, hoặc ngược lại.
Trong khi các thợ bê tông ở tâng hai chính Lăng miệt mài với bê tông cốt thép, đổ sàn, dựng cột "Xây" tường thì ở ngay bên cạnh quảng trường xưởng xẻ gỗ và xưởng mộc cũng hăng hái tiếp tục làm những bộ cửa lớn, nhỏ bằng những loại gỗ quý nhất cho tầng hai, "Tầng Bác sẽ về". Ông Mỹ chỉ huy trường công trường lại tới thăm nhóm thợ mộc. Khác với những chỗ bộ độ và công nhân tạm trú hoặc làm việc, ở khu vực gỗ mấy gia đình thợ mộc sống và làm việc như trong một xóm nhỏ vậy. Đủ nam phụ não ấu, với không khí rất "Tôn ti trật tư", thậm chí cả "Gia trưởng" giữa các ông cháu, cha con. Tất cả hơn sáu chục tay thợ tài hoa đã được các địa phương tuyển chọn để gửi lên Lăng. Có ông ở Thá Yên cùng quê với đồng chí Trần Phú (Hà Tĩnh) có anh ở Giao Hào - Cao Đạt (Nam Định) có cụ ở Yên Thế quê ông Đề Thám... Khi được tuyển, có cụ, có ông làm lễ gia tiên cầu các cụ phù hộ lên Lăng Bác phục vụ có kết quả. Có cụ còn đem theo cả cháu đi cho học việc luôn thể... ở cái "phân xưởng đặc biệt" này, các cụ không cho xẻ gỗ bằng cưa máy vì sợ mạch cửa của máy to sẽ hao gỗ quý. Phải xẻ tay. Các cụ cởi trần ra, hì hụi xẻ không chịu thua con chấu là mấy. Xẻ khá sớm, ngay sau khi có lễ khánh thành Lăng ít lâu khi mới chỉ có gỗ của một số tỉnh miền Bắc đưa về. KHi có gỗ xẻ, các nghệ nhân bắt tay ngay vào đóng các bộ cửa. Phần ngầm đã phải 100 bộ. Khi đó các cụ đã tự tổ chức một cuộc thi tài cho tất cả các tay thợ trẻ, không phân biết Đông, Đoài... Đề thi làm một kiểm mộng gỗ Trắc. Kiểu mộng này phải kết cấu bên trong, không có "ke", không có chốt, mà đủ sức giữ thăng bằng cho tấm cửa nặng hơn 60 kg mỗi lần đóng mở. Mông không chắc, không khẻo, cửa sẽ bị bửa ra, méo đi, không thể di động được... Có 35 người cả già cả trẻ hăng hái tham gia thi tài. Nhiều kiểu mộng đã được sáng chế. Có kiểm vuông, có kiểu hình chữ thật, có kiểu mộng xiên như góc các khung ảnh. Những kiểu được mọi người "Chịu" nhất là của một tay thợ trẻ người Giao hoà - Nam Định. Kiểu này gọi là "Mộng mòi", trông bề ngoài xiên góc, bên trong lại vừa lông ngang vừa thắt dọc, đặc biệt là đã đóng mộng vào là chịu hết, không mở ra được nữa, chỉ có đập, phá ra. Mộng này lắp vào, bên ngoài các đường vân thớ gỗ vẫn đẹp, nom y như lion một khối gỗ chưa không phải những mảnh khác nhau ghép lại. Ngay lập tức kiểu mộng lạ lùng và tuyệt với ấy được đưa lên Ban chỉ huy công trường xem. Ban chỉ huy công trường lập tức khen thưởng ngay cho chàng trai Giao Hoà ấy, và quyết định cho toàn công trường phải dùng kiểu Mộng Mòi này cho tất cả các loại cửa trong Lăng... Khi ông Mỹ hỏi cậu thợ trẻ có ý kiến gì không, cậu chỉ bẽn lẽn: "Cháu xin dâng kiểu mộng này lên Bác. Và cháu chỉ xin khi nào lên phần nổi làm tới phòng Bác, cháu lại xin xung phong!"... Ông Mỹ ôm lấy cậu bế bổng lên giữa tiếng cười vui của mọi người.
Tạm biệt "Thể giới" thợ mộc đáng yêu ấy, Mỹ lại tìm tới chỗ của anh em tiểu đoàn 2 Công Binh - đơn vị vẫn còn ở lại công trường chuyên làm nhiệm vụ về lắp máy. Anh em này cũng đã tích cực và tranh thủ tháo lắp được khá nhiều máy móc nhỏ mà ta sẵn có, khối lượng cũng đã có thể tới hàng tấn. Nay anh em cũng đang tập trung làm việc trên phần nổi mà chủ yếu là phòng của Bác sẽ về. Các cấu kiện và các phụ kiện và giây, ống cho điện, nước, và thông tin anh em đã chuẩn bị để khi anh em bên "Xây" làm xong bệ Hoa cương trên phòng Bác, là tiểu đoàn 2 sẽ lao vào ngay, lắp sẵn những cấu kiện dưới bệ hoa cương của Bác để chờ máy hiện đại sau sẽ về. Anh em Công binh tiểu đoàn 2 lúc này cũng tập trung vào việc kiểm tra và củng cố thêm về kỹ thuật cho các đường ống của hệ thống thông hơi, thông gió, điều hoà nhiệt độ - hệ thống quan trọng hàng đầu trong việc quả phục vụ hòm kính bảo vệ thi hài Bác. Để chuẩn bị cho hệ thống thông hơi, điều hoà mà Liên Xô đặt làm ở tây Âu sẽ về, anh em công binh còn phối hợp với bên "Xây" đã dựng xong một trạm lạnh với 6 cụm máy. Máy lạnh là tuyệt đối cần thiết, không thể thiếu được cho hệ thống thông hơi thông gió. Ông Mỹ cũng đã tới kiểm tra cụm 6 máy lạnh này và rất ưng ý...
Xem xét một lượt trong phòng Bác, nói chuyện với anh em tiểu đoàn 2 công binh xong, ông Mỹ ra ngoài hành lang ngắm nhìn gần như toàn cảnh công trường, ông càng cảm thấy vui và xúc động. Mùa thu đã lại về. Trời lại trong xanh dịu dàng. Nhìn sang hai bên Lăng, phía dưới một chút, hai lễ đài tả, hữu đã xong như dang tay đỡ lấy khối chính làm lộ rõ toàn bộ vẻ đồ sộ, bề thế, uy nghi của Lăng. Ông bỗng nhớ lại câu ngạn ngũ của Việt Nam "Trăm nghe không bằng mắt thấy". Đúng là ông đã được xem biết bao lần các thiết kế và các bản vẽ của Lăng, nhưng được nhìn thực sự hôm nay được ôm lấy nó trong tay mới càng thấy rõ hơn tất cả vẻ đẹp ấy.
Rồi ông quay lại như ôm lấy từng chiếc cột. Dù mới chỉ là bê tông tho nhưng những chiếc cột này đã rất đẹp, thẳng tắp và đều đặn vô cùng, không thua kém gì các cột, trụ các đền đài cổ xưa nổi tiếng trên thế giới.... Và ông càng cảm thấy Lăng Bác sắp thành công.
Trong khi ấy ở ngoài quảng trường mới được mở rộng, ông Nguyễn Văn Tưởng chỉ huy trưởng xây dựng ở đây đang không khỏi sốt ruột và cả lo lắng về thời gian, Ngày, ngày, ông như "Chạy" quanh quảng trường suột buổi, gặp hếu khắc các bộ phận từ trồng cây tới điện nước, và san lấp mặt bằng quảng trường đã được mở rộng ra thành 3 ha. Ông rất vất vả vì công việc ở đây rất nhiều, công nhân cĩng đông như hầu hết là thành niên của 14 tỉnh gửi về tinh thần thì có nhưng tay nghề anh chị em gần như không. Đã phải huấn luyện cấp tốc nhưng vẫn chưa có chuyển biến lớn. Nên hiện khối lượng công việc chung của quảng trường mới đạt được chừng 50 phần trăm. Đang cố gắng đẩy mạnh hơn nữa. Ông lo nhất là mặt bằng quảng trường, rồi mới đến cây xanh và hoa tươi quanh trường và sau Lăng... Mặt bằng quảng trường, nếu theo thiết kế của Liên Xô sẽ là một mặt mênh mông toàn là bê tông cốt thép. Thết kế ấy đã được các chuyên gia Giệt Nam xem lại và thấy bạn là dân xứ lạnh không hiểu hết cái năng nhiệt đới. Đã nắng như đổ lửa, lại còn sân bê tông hắt lên, làm sao chịu nổ?. Nghĩ mãi cuối cùng các kỹ sư, cán bộ của ta đã có một phương án rất hay là phải trồng cỏ, nhưng sẽ chia ra thành từng ô cho người dự mít tinh đứng. Chung quanh các ô cỏ ấy sẽ tạo những con đường nhỏ ngang dọc như bàn cờ, đường rộng khoảng 1 mét 50 cũng bằng bê tông nhưng trên có gắn một lớp sỏi cuội vừa đẹp vừa đỡ nóng. Các chuyên gia bạn được nghe trình bày phương án các ô cỏ đã xem xét lại rất kỹ rồi cùng nhất trí và phải khen là Việt Nam hết sức thông minh. Bộ CT đã tán thành phương án này và quyết định cho làm. Nay các nhóm công nhân đang bắt tay vào thực hiện. Ông Tưởng đang mong và cả hy vọng là các ô vuông cỏ và những con đường sỏi ngang dọc ấy sẽ được hoàn thành đúng hẹn của trên.
Cũng thời gian này trong chiến trường cũng đang càng phát triển rộng lớn và rất sôi động. Quảng trị, Huế - Thừa Thiên đã mở được nhiều vùng, dồn dịch chủ yếu vào các đô thị và các vùng ven biển. Khu 9, Khu 10 Nam bộ cũng đã giải phóng hàng chục vạn dân, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch. Rồi sau chiến thắng rất lớn ở Thượng Đức (tháng 8 - 1974)...
Trước những chiến thắng còn đang tiếp diễn khắp miền Nam. Bộ CT của ta đã triệu tập ngay một cuộc họp hết sức quan trọng ngay trong tháng 7(1974) ở Đồ Sơn để nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo tình hình mới nhất trong chiến trường. Vừa nghe, Bộ Ct vừa đặt ra những vấn đề lớn và yêu cầu Bộ Tổng Tham mưu báo cáo sâu thêm những điểm cần thiết. Rồi đồng chí Lê Duẩn đã phân tích một cách rất sâu sắc đặc điểm của tình hình mới... Rồi từ những ý kiến chỉ đạo của Bộ CT, Bộ tổng tư lệnh đã gấp rút chuẩn bị lực lượng và một kế hoạch quân sự rất lớn... (đến cuối tháng 9 - 1974 Bộ Tổng tư lệnh đã trình lên Bộ CT một bản kế hoạch rất cụ thể về chiến lược cơ bản giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 - Nhưng tuỳ hình hình phát triển, nếu có thời cơ, ngay trong 1975 sẽ quyết dứt điểm!
Như thế, giai đoạn cuối của công trình Lăng Bác gần như trùng hợp hoặc tương đồng với tình hình chung của cả nước cùng quyết tâm lớn của Bộ CT và TƯ nhanh chóng giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nếu quả là có một sự trung hợp, hoặc tương đồng như vậy thì cũng thật là một điều gì đó thật diệu kỳ...
Tình hình chung của Đất nước đang như càng chói sáng lên, tất cả mọi người, trong đó có cả anh em đông đảo trên công trường xây Lăng Bác và cải tạo và nâng cao quảng trưởng Ba Đình đều vô cùng nao nức.
Bên công trường Lăng, những công việc cuối cùng của xây phần thô đã sắp đi tới kết thúc. Ở tầng trung tâm - tầng chính Lăng, nơi có phòng Bác về đã hoàn tất và đã được kiểm nghiệm, được đánh giá là không thể chê trách, nếu không muốn nói là quá đẹp, quá tốt. Bây giờ đến lượt tầng mái sắp xong. Anh em công nhân đang chuẩn bị lợp một mái đồng dày ba, bốn ly trên mái bê tông để vừa chống sét vừa chống thấm. Anh em công binh lắp máy cũng đang chuẩn bị để cẩu các máy móc vận chuyển vật liệu cần thiết lên mái này.
Đã dần dần sang cuối tháng 10. Đã cuối thu, mùa đông đã bắt đầu ló dạng thi thoảng với những đợt gió mùa đông bắc sớm. Tuy nhiên dẫu sao ở phần bệ và hai khán đài bên Lăng, cũng như ngoài quảng trường cũng không hề hấn gì lắm, chỉ gay gắt, tím tái đối với anh em công nhân vẫn còn phải ngồi trên những tháp cần cẩu lớn của Liene Xô mới sang, để phục vụ những việc hoàn tất phần cuối cùng của "Xây" là phần mái. Cái khó nhất ở mái là ở bốn góc phải vát nhẹ lên theo phong cách cổ truyền. Phải ngửa mặt lên trên dàn giáo để thi công... Tuy nhiên những tin vui của Nam, Bắc như một nguồn động viên rất lớn đã làm cho anh em thợ vẫn gắng làm việc hăng say và rất khó có kết quả. Mặt khác, ở trên cao cũng có cái vui là được nhìm xuống bao quát cả toàn cảnh quảng trường Ba Đình. Thấy tất cả sự tập nập, và như thay da đổi thịt trong thấy từng ngày. Từ trên mái Lăng đang thi công, còn vui nữa là đã nhìn thấy ở dưới chân Lăng có nhiều chồng gạch Hoa cương đã được xếp đó đề rồi các thợ lành nghề ốp đã của Liên Xô với sự phụ giúp của công nhân Việt Nam được phân công đặc trách toàn bộ công việc ốp đã Hoa cương bên ngoài Lăng...
Thế rồi công việc đổ bê tông trên mái đã hoàn tất đúng ngày 30-10-1974. Ngay hôm sau 1 - 11 - 1974 toàn khối Lăng bắt tay ngay vào các công việc trát vữa trene các trần và tiến hành công tác ốp đá mầu cả ngoài cả trong Lăng với tất cả các phòng lớn nhỏ, tất cả các cầu thang, các khuôn cửa... cùng các việc trang trí khác.
Buổi đầu ốp đá mầu đầu tiên trong Lăng là ở một phòng khách. Trước mặt một số cán bộ, và một số công nhân ốp của ta, có cả tổ chuyên gia ốp đá của Liên Xô sang giúp cũng tới dự, buổi lễ dù giản dị nhưng ai cũng vẫn cảm thấy long trọng và đầy ý nghĩa. Hai đồng chí Đỗ Mười và Phùng Thế Tài cùng trực tiếp ốp hai viên đầu tiên coi như mở đầu cho cả thời kỳ ốp đá và trang trí ở Lăng... Trong căn phòng khách còn thô mộc và chưa có bất cứ bàn ghế hoặc trang trí gì, nhưng không khí "Ra quân ốp đá quý" cũng không ít vẻ trang nghiêm, đầy ý nghĩa. Khi hiệu lệnh của anh tổ trưởng ốp cất lên, lập tức hai đồng chí lãnh đạo cùng trang trọng mỗi người nâng một viên đá lên, đặt ốp vào mặt tường chính, chỗ đã có đánh dấu. Tiếng vỗ tay hoan hô vui vẻ của tất cả những người chứng kiến vang lên. Tất nhiên đã có tập dượt sẵn nên hai đồng chí thực hiện mọi động tác khá chính xác. Điều quan trọng trong việc ốp không phải chỉ là đặt viên đá vào tường thật phẳng, còn phải làm sao cho khe nối giữa viên này viên kía phải rất khít nhau, tạo cảm giác không có vữa liên kết mà chỉ có viên này và viên kia tựa, tính vào nhau. Cả hai đồng chí Mười và Tài đều làm được tốt. Thế rồi các thợ chính vào làm việc. Không khí càng thêm nhộn nhịp.
Rồi sau đó, hết phòng này qua phòng kia, ngày này qua ngày khác, công việc ốp đã được tiến hành khá mau lẹ. Phòng này mầu vàng, phòng kia mầu hồng, phòng nọ màu xanh vân... Tất cả đều tựa như từ trong mơ hiện ra. Mới hôm qua tất cả còn là những bức tường trần trụi mầu xi măng trắng mốc. Hôm nay đã như được khoách những tấm áo mới nuột nà với những màu xác khác nhau, nơi sang trọng, nơi nên thơ, hoặc trầm ấm, sâu sắc... Ốp đá là một ngành mới ở nước ta, thợ ta cũng toàn thợ mới, tay nghề còn non, nhưng do được học tập tốt, hơn nữa với tinh thần có thể coi như đặc biệt của những con, cháu muốn đem hết sức, hết tài trí của mình ra để làm đẹp Lăng của Bác nên nhìn chung kết quả của công việc là đáng khích lệ. Chính những anh thợ chuyên nhiệm ốp đá của Liên Xô cũng đã vui vẻ thốt lên như thế.
Nhưng đẹp nhất, ấn tượng nhất phòng nơi Bác sẽ về. Toàn phòng đã được ốp bằng đá Cẩm thạch của Hà Tây - loại đá có vân hoa đẹp như mây vờn, màu trắng trầm sâu trang nhã không những tạo được mỹ cảm mà còn cả sự tôn nghiêm và sự yên tĩnh và cao quý. Cũng ở phòng này, phía trên bức tường chính - phía sau bệ hoa cương nơi Bác nằm - nổi bật lên hai lá cờ Đảng và cờ Tổ quốc kỳ, được ốp ghép bằng 4000 mảnh đá nhỏ đã được cắt mài cực kỳ khéo léo, tinh vi, đén mức ai chợt trông thấy có thể tưởng như cả lác pử cũng đang lay bay nhẹ nhàng. Tìm được đúng đá quý cò màu đỏ cờ, rồi mài dũa và lắp ghép được nên hai lá cờ này là một kỳ công. Thoạt đầu không tìm đâu ra thứ đá đỏ như cờ. Các nơi gầy, xa đã cố công tìm kiếm khắp, đều không có, chỉ riêng Thanh Hoá đem về được đá Cẩm Vân. Nhưng chỉ đỏ nhờ nhờ, hoặc màu da cam. Đã gần như hết hy vọng thì bỗng có tin báo về: có một can bộ địa chất đã cố gắng lăn lội tiếp sâu vào tận một thôn nhỏ của làng Ruồng xã Điền Hải huyện Bá Thước - một huyện ở vùng rừng núi xa xôi phía tây Thanh Hoá - nơi có dấu chân voi chiến của Lê Lợi xưa luyện quân ở đấy để chống ngoại xâm dành lại đất nước. Phát hiện ra thứ đá đỏ này là nhờ bà con dân tộc Mường ở Ruồng mách bảo. Một số đá mẫu đã được tổ địa chất đưa ngay về Hà Nội. Các nhà chuyên về đá quý hiếm, các nhà địa chất lão luyện, các nhà khoa học uyên bác đã được tập trung ngay để làm các xét nghiệm... Và cuối cùng tất cả cùng reo lên "Đá đỏ đây rồi! Hoàn toàn là màu cờ đây rồi!" Tin vui lập tức được báo cáo nay lên Bộ CT. Thế rồi một công trường khai thác đá đỏ ở Ruồng - Bá Thước đã được Tỉnh uỷ Thanh Hoá và Huyện uỷ, Uỷ ban hành chính Bá Thước đã được mở ngay tại chỗ. Hàng nghìn thanh niên nam nữ trong huyện đã tình nguyện tới công trường để khai thác thứ đá đỏ đặc biệt ấy. Tuy nhiên lại không có nhiều đá này. Sau hàng tháng trời chỉ khai thác được đủ số đá cần dùng. Nhân dân địa phương nói đó là "Trời đã định thế. Chỉ cho mình đủ đá quý để ghép cờ ở Lăng Bác". Còn đá màu vàng để ghép ngôi sao trên quốc kỳ và hình bừa liềm trên cờ Đảng cũng đã kiếm được. Một điều nữa rất hay đã xảy tới: Khi sắp ghép cờ, đồng chí Nguyễn Văn hiếu thay mặt Đảng bộ và nhân dân miền Nam đem ra hai viên ngọc Mã não để dâng lên Lăng BAc, một viên màu đỏ, một viên vàng. Bộ CT đã đón nhận và quyết định ngay - theo gợi ý của các nhà chuyên môn và các cán bộ khác - viên Mã não đỏ ghép với cờ Tổ quốc, còn viên Mã não vàng thì ghép vào chỗ hai cán búa, liềm đều màu vàng giao nhau trên cờ Đảng. Sự việc đã được giải quyết quá hay, làm mọi người vô cùng hài lòng, hoan hỉ.
Nhưng không phải chỉ có hai lá cờ hết sức quý báu ấy, trong công việc trang trí và ốp đá ở Lăng còn có một trọng điểm nữa: ấy là tiền sảnh ở dưới tầng bệ - nơi bất cứ ai vào Lăng viếng Bác trước hết cũng phải qua sảnh rồi mới lên được phòng Bác. Tiền sảnh được ốp đá hoa cương màu hồng đậm, ấm áp mà đẹp. Sảnh rộng nhưng không bày một thứ gì ngoài mấy chậu cây nhỏ dưới chân bức tường chính diện. Sự thoáng rộng đã làm tăng thêm vẻ sang trọng của toàn sảnh. Nhưng điểm mấu chốt có tác động mạnh hơn và thu hút được sự chú ý của mọi người ngay trong những giây phút đầu tiên đầy xúc cảm bước vào sảnh này là ai cũng nhìn thấy trước hết bức tường lớn chính giữa đã có gắn ốp bằng đá quý câu nói tuyệt vời, bất hủ của Bác như đã thành chân lý không phải chỉ cho riêng Việt Nam mà như cho cả loài người: "KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO". Bên dưới, là chữ ký của Bác được phóng to: "HỒ CHÍ NMINH" rất đẹp, rất chính xác. Tất cả toàn một màu vàng ròng...
Đó là trong Lăng, ở mặt ngoài, đá ốp toàn bộ là hoa cương loại 1. Công tác ốp đá này hoàn toàn không giống ốp các đá men xứ thông thường. Hoa cương và các loại đá quý, lại rất nặng, rất khó ốp, phải có kỹ thuật và có cả mỹ thuật. Từ việc chuẩn bị đá đã hết sức phức tạp: chọn loại nào với loại nào cho đúng thiết kế, không được lầm lẫn, để cho nhà máy xẻ rồi mài cho đúng với kích cỡ thật chính xác. Rồi phải khoan lắp các móc sắt để móc treo vào mành sắt gắn trên các mặt tường bê tông. Ốp treo cũng phải chính xác, các mảnh đá phải theo thứ tự đã có đánh số; không được lầm lẫn, tuỳ tiện. Đá đã được đánh số từ 1 trở đi, không được tuỳ tiện ốp gắn vào ô số 2 hoặc số 3... Các hàng cũng thế đều đã tĩnh toàn, và có đánh số hết, các mảnh đá ở hàng số 1 không được lẫn xuống hàng số 2 hoặc số 3... và ngược lại. Công phu và nghệ thuật đến thế quả là chưa hề có ở nước ta... Để thực hiện công việc rất tỉ mỉ, khoa học ấy phải chia đội, đội phải chia tổ. Mỗi đội từ 50 tới 60 người. Mỗi tổ từ 12 tới 15 người, mỗi tổ còn chia thành 2 nhóm. Phải toàn là những tay thợ lão luyện của Nga cả. Nhân viên phụ tức quân ta chủ yếu là đổ vữa. Trong kỹ thuật ốp đã quý, việc xác định và đặt trung "Tim" là quan trọng bậc nhất, kể cả "Cao độ" cũng là điều quan trọng không kém. Nếu ốp mà sai "Tim", sai "Cao độ" là phải sửa lại rất khó khăn phức tạp, ngay thợ giỏi có khi cũng sai, phải làm lại cả từng hàng, hoặc từng cột... Cho tới khi ốp xong, còn biết bao công việc nữa như lau chùi, và rửa đá... Đó là chưa nói tới thời tiết. Công việc ốp đá đang vào mua đông. Bên trong Lăng còn đỡ, ngoài Lăng gió lạnh nhiều hơn như cắt da cắt thịt. Khi ốp lên cao càng gay go, quyết liệt... Tuy nhiên các chuyên gia và anh em thợ Liên Xô vốn quyen khí hậu miền nhiệt đới gió mùa, cũng khó chịu cả cái rét ẩm ướt ở nước ta, dù họ là dân xứ tuyết. Tuy nhiên không một anh nào xin nghỉ việc dù chỉ một ngày.
Đồng chí Trường Chinh đã ra tận nơi chỗ anh em thợ Liên Xô ốp đá ngoài Lăng để thăm hỏi và động viên. Một anh thợ ấy đã cười rất hiền đáp lại "Anh Năm" của chúng ta bằng mấy câu tiếng Việt bập bẹ: "Bác Hồ cũng là của chúng tôi là!"...
Thế đấy, toàn Lăng đã dần dần như được khoác bên ngoài một bộ áo hoàn toàn mới bằng vủi quý màu xám xanh với những đường vân hoa chìm rất sâu và sang trọng. ốp đến đấu toà Lăng đẹp và uy nghi đến đấy....
Cùng thời gian này anh em công binh cũng dốc sức lao vào việc lắp máy. Có thể như nhìn thấy ngày toàn thắng của công trường sắp đến rồi! Đã từng luôn nhắc nhở, nhưng tới lúc này các đồng chí lãnh đạo vẫn nhắc anh em phải: "Hết sức thận trọng, hết sức tỉ mỉ, chu đáo, không được chủ quan sai một ly trong công việc". Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng đã đến với anh em Tiểu đoàn 2 công binh lắp máy trong những ngày đông giá lạnh nhưng công việc lại rất "Nóng", thậm chí "Rất nóng" này. Thời gian đang dục dã. Đồng chí cho biết: đồng chí được nghe báo cáo và rất thông cảm là phần lắp máy đã phải vào cuộc chậm hơn anh em bên "Xây" do bản thiết kế thi công tháng 3 - 1974 vừa qua mới xong, và chậm còn do việc Liên Xô phải đặt một số máy móc, nhất là hệ thống thông hơi, điều hoà không khí - bộ phận quan trọng nhất và cũng lớn nhất - phải đặt làm ở Nhật, Mỹ, Đan Mạch.... nay vẫn chưa về, còn phải chờ. Vẫn theo lời "Bác Tô", tất cả các đồng chí lãnh đạo đều biết anh em rất tích cực, đã chủ động tranh thủ lắp được hàng tấn máy, điều này tất cả anh em các bộ phận khác cũng đã biết, rất đáng hoan nghênh.. Nghe ý kiến đồng chí Thủ trưởng, anh em lắp máy rất cảm động thấy đồng chí cũng rất sâu sắc và giàu lòng cảm thông. Anh em đã báo cáo: nay anh em đang làm tiếp công việc hoàn thiện phần điện trạm nguồn. Các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật đã tới để giúp anh em trước hết là lắp trạm biến áp 3x1000KVA. Cụm này được coi là "Quả tim của công trình"... Rồi còn phải đưa, đặt nhiều động cơ điện từ 0,6 tưới 2000KW vào vị trí cho đủ. Rồi còn phải đưa, đặt nhiều động cơ điện từ 0,6 tưới 2000KW vào vị trí cho đủ. Rồi còn buồng điều độ trung tâm, ở đó phải lắp các bảng điều khiển, kiểm tra hệ điều hoà không khí... Tuy không nặng nhọc, vất vả lắm, nhưng phần này đòi hỏi sự tỉ mỉ rất cao nên cũng thợ cũng khá căng thẳng. Nhưng anh em hiểu các bảng này rồi sẽ thay con người làm những việc chi li, tinh xảo, tự động báo những con số, những sai sót để kịp thời điều chỉnh hệ thống điều hoà... Vẫn chưa hết, còn tổng đài điện thoại 100 số, còn hệ truyền hình công nghiệp cũng đang bắt đầu lắp rất công phu, tỉ mỉ... Nhưng còn quan trọng hơn, anh em báo cáo là đã lắp được 6 trạm lạnh tới cần thiết cho hệ thống thông hơi điều hoà nhiệt độ, và cũng đã giúp đỡ, kiểm tra liên tục các đường ống thông hơi sản xuất ở "Xưởng dã chiến" ngay gần công trường. Những ống này sẽ để phục vụ cho hệ thống thông hơi điều hoà nhiệt độ... Miệng báo cáo mà trong lòng anh em cứ sợ bác Đồng thấy quá nhiều việc mà lo ngại cho sức khoẻ của anh em. Tuy nhiên vẫn cứ phải báo cáo và nhấn mạnh tới sự mong đợi nhất của anh em lúc này là hệ thống thông hơi, và điều hoà nhiệt độ - hệ thống máy quan trọng bậc nhất ở đây cùng các vật tư đặc biệt phục vụ chung quanh bệ đặt thi hài Bác từ hòm kính tới bộ máy chuyển Bác xuống phần một để làm thuốc rồi lại nâng Bác trở lên bệ hoa cương với khả năng vận chuyển an toàn cả trong tình huống có bom đạn ở ngay tại địa điểm này... Cả hai khối vật tư này đều chưa sang. Nhưng anh em cũng được biết trước là khi các vật tư ấy sang, các chuyên gia Liên Xô sẽ được phân công chủ yếu chịu trách nhiệm lắp rắp toàn khối vật tư của vị trí đặt thi hài Bác-tất nhiên cũng có anh em Việt Nam phù trợ và để học tập thêm. Còn phần lớn, anh em ta chủ yếu phụ trách khối vật tư, máy móc của hệ thống thông hơi điều hoà nhiệt độ... Đồng chí Đồng lắng nghe và tỏ ra rất hiểu và càng cảm thông trước tinh thần và tình cảm của anh em. Trước khi ra về đồng chí chỉ còn dặn thêm một câu như gan ruột: "Các đồng chí vừa là chiến sĩ lại vừa là công nhân, vậy hãy tiếp tục nêu cao tấm gương tiên phong và quyết tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của "Bộ đội Cụ Hồ!".
Tất cả các chiến sĩ xúc động, cùng mạnh mẽ hô vang những lời hứa nồng cháy của mình, và tiễn đồng chí Thủ trưởng ra về.
Thế rồi anh em lại bắt tay ngay vào các công việc của mình với máy lớn, máy nhỏ, sắt, thép, điện, nước, gió, hơi... Thi thoảng ngoái nhìn ra phía quảng trường thấy đã cỏ xảnh đã bắt đầu hiện lên từng mảng lớn, lính ta lại càng sốt ruột mong hệ thống thông hơi điều hoà nhiệt độ Một cậu bung ra một câu đùa, vui mà cũng... cay: Khéo mọi người sẽ ra về hết, chì còn cánh tay ở đây đợi máy và dự quốc khánh 1975 ở đây luôn!".
Nhưng rồi chỉ mấy hôm sau, "Đùng" một cái, tin vui lớn bay về như chớp giật sáng loà cả công trường: Tầu chở vật tư của hệ thống thông hơi điều hoà nhiệt độ đã về tới phao số 0 của cảng Hải Phòng! Tất cả cán bộ, công nhân, cả bên Lăng, cả quảng trường đều như nhảy cả lên reo mừng.
Đồng chí Đỗ Mười cấp tốc triệu tập các cán bộ có nhiệm vụ tổ chức vận chuyển "Hàng" đến hội ý. Mệnh lệnh: Phải về sơm. Chỉ cho 5 ngày! Trên này sẽ lo hỗ trợ các mặt về tầu xe và giao thông! (Thông thường "Hàng" lớn như thế này phải hàng tháng mới lên tới Hà Nội. Đúng là mệnh lệnh như lửa cháy). Một chiếc "Con măng ca" đưa anh em vù đi Hải Phòng nay, chở theo mấy cán bộ Đường sắt, mặc dầu trời đã tối. Đúng 23 giờ 30 hôm đó đoàn cán bộ Hà Nội gặp giám đốc Cảng, treo lệnh của trên. Sau một thoáng suy nghĩ, ông giám đốc cảng đề nghị: Dẫu sao cũng khuya rồi, để sớm mai, các phái viên của hà Nội sẽ cùng ông sẽ ra thẳng phao số 0 gặp chủ tầu làm việc trực tiếp luôn. Đồng ý. Sáng kiến hay mà cũng tích cực! Đúng 5 giờ 30 sáng hôm sau, sương mũ còn chưa tan, một chiếc canô chở đoàn cán bộ Cảng và Hà Nội đã lướt sóng nhanh chóng ra tới phao số 0, cặp mạn con tầu Balan rất lớn do Liên Xô thuê để chuyển hàng sang ta. Giám đốc Cảng thông báo cho chủ tầu là ngay chiều nay, chờ con nước, tầu này sẽ được phép ưu tiên số 1 trong số 15 tầu khác cũng đang chờ ở đây, vào cảng trước. Nghe xong chủ tầu hết sức vui mừng. Chưa nói chuyện gì nhiều, ông ta mở ngay sâm banh mời đoàn khách. Nhưng khách cần về ngay, chỉ chiếu cố mỗi người nhấp một chút rồi bắt tay chủ chủ tàu, xuống ca nô ngay...
Trong khi đó ở Hà Nội, Tổng cục Đường sắt cấp tốc điều 9 toa xe lửa võng xuống ngay Hải phòng để đón hàng. Phải là toa xe võng vì biết trước là hàng lớn, quá khổ, chở toa thường sẽ không qua nổi cầu Long Biên. Nhưng các xẽ võng đều nằm rải rác suốt từ Lạng Sơn, Hà Nội tới Thanh Hoá. Để không lỡ thời gian, các trưởng ga có toa xe võng đều nhận được lệnh cho một đầu máy cấp tốc kéo ngay toa xe ấy xuống Hải phòng bất cả ngày đêm.
Ngay đêm ấy con tầu chở hàng Liên Xô thuê đã cập bến Hải phòng Cũng đêm ấy các toa xe võng cũng đã được nhanh chóng được nhanh chóng được tập trung ở ga Hà Nội rồi được đưa xuống thành phố biển luôn. Sự hiệp đồng thật tuyệt vời có lẽ chưa bao giờ từng có ở đây. Các đội bốc xếp cũng được Tổng cục Đường sắt trao trách nhiệm điều khiển đoàn xe lửa đặc biệt này. Mỗi toa xe còn có một Công an bảo vệ và một công nhân cầm một cây sào dài, để khi tầu gặp phải những nơi có giây điện giăng ngang sẽ dùng sao này đẩy cao giây lên cho tầu qua...
... Thế rồi công việc bốc xếp hàng từ tầu lên bến cảng đã hoàn tất với với một tốc độ phi thường chưa từng có, mà không một thiếu sót... Tiếp đó, các máy móc được cố định rất chắc chắn trên các toa xe võng. Và đoàn tầu đặc biệt với hoa và cờ đỏ thắm trên đầu máy, thét một hồi còi dài đầy vui mừng và cả kiêu hãnh, từ từ chuyển bánh... Suốt dọc đường sắt, ga nào cũng có nhân dân, ra chào đón.
Tầu về tới Hà Nội, đã có một đoàn xe tải chờ sẵn nhận hàng rồi chở thẳng về quảng trường Ba Đình. Cuộc đón tiếp giản dị nhưng vẫn đầy không khí trang trọng nhất là đầy vui mừng không khác gì đón gỗ, đá quý từ chiến trường trở ra.
Các chuyên gia Liên Xô được uỷ nhiệm kiểm luôn các mặt hàng. Thật tuyệt! Tất cả 240 tấn thiết bị dù qua bao biển lớn về tới đây vẫn hoàn toàn đầy đủ và nguyên vẹn... Một kỹ sư Nga vui vẻ nói đùa: "Lúc này chỉ cần thiếu một bộ phận nhỏ, chúng tôi chỉ còn biết ... khóc".
Nhưng chưa hết, một tin mừng lớn nữa lại tới.
Điện từ sân bay Gia Lâm báo về: Vật tư của Lăng Bác cũng đã tới!. Biết là những gì rồi: Đó là những thiết bị quý hiếm và rất hiện đại mà trong nước chưa hệ có, để hoàn chỉnh bệ đặt thi hài Bác. Ngay lập tức một nhóm cán bộ rất tin cậy được phái sang Gia Lâm ngay sáng hôm sau. Đúng 10 giờ, chiếc máy bay vận tải số hiệu 42988 hạ cánh. Một đội xe nối nhau bon bon tới ngay cuối máy bay. Hàng được chuyển xuống khá nhanh gọn. Phấn khởi qua,s các cán bộ, sĩo quan ta yêu cầu tổ lái máy ban cùng chụp chung một "Pô" ảnh làm kỷ niệm, rồi nhảy lên xe, ra lệnh thẳng tiến về quảng trường Ba Đình.
Các đồng chí lãnh đạo cùng các chuyên gia Liên Xô đã có mặt ở đó chờ sẵn. Hội trường Ba Đình đã được chọn làm "Kho" lưu giữ các vật tư đặc biệt quý hiếm này trước khi trao choanh em lắp máy. Tất nhiên như đã có quyết định, các chuyên gia sẽ trực tiếp lắp ráp toàn bộ các vật tư mới sang, dễ hiểu vì họ đã có học và giầu kinh nghiệm để làm tốt việc này, còn anh em Việt Nam sẽ làm lực lượng phụ trợ, cũng là để học thêm nghề...
Thế rồi ngay sau đó, ngày 1 tháng 3 năm 1975, Ban xây dựng đã phát động một đợt thi đua mới với thời hạn 40 ngày phải hoàn tất tốt đẹp cả việc lắp máy trên nơi Bác nằm, xong cả toàn bộ hệ thống máy thông hơi và điều hoà nhiệt độ dù rất to lớn và hết sức nặng.
Bộ phận cán bộ, chiến sĩ công binh lẽ cố nhiên lại vinh dự được phân công hỗ trợ bạn lắp ráp vật tư mới sang, để hoàn tất bệ sen sẽ đặt thi hài Bác và lắp đặt toàn bộ hệ thống máy thông hơi điều hoà "Lá phổi" của toàn Lăng. Đến gặp các chuyên gia Liên Xô, các chiến sĩ ta cùng bạn vào việc luôn. Anh em ta đều đã hiểu trong tất cả các máy móc tinh vi, hiện đại ở đây thì lồng kính (quan tài kính) là quan trọng hơn hết. Các tấm kính vốn được tháo rời khi chuyển bằng máy bay, nay sẽ được lắp lại bằng loại keo rất đặc biệt. Kính dày 20mm do công nghiệp vũ trị Nga sản xuất, cực kỳ trong suốt, đạn bắt không vỡ, mảnh lựu đạn không hề hấn gì, ánh mặt trời xuyên qua cũng không bị khúc xạ. Kính hai bên được lắp nghiêng góc 24 độ để nhìn rõ mà không biến hình, biến dạng. Trên móc hòm kính là hàng chục bộ các loại đèn với nhiều tia chiếu qua một hệ kính lọc, bảo đảm ánh sáng có thể tự điều chọn màu sắc và hạn chế nhiệt... Lắp đặt được tất cả những thứ này, các chuyên gia bạn cũng phải hết sức thận trọng từng động tác, toàn tâm trí đều để cả vào đấy với một niềm kính yêu chung vô bờ bến đối với Bác. Họ đã từng nói rất chân thành với các cán bộ và chiến sĩ ta "Bác Hồ cũng là của chúng tôi mà!".
Trong khi ấy, công việc của anh em công binh lắp hệ thống thông hơi điều hoà không khí cũng lao vào việc với tất cả tinh thần và sức lực của mình... Toàn là máy lớn, rất nặng. Công việc này cũng gần như rất mới mẻ với cán bộ, chiến sĩ ta, mặc dầu từ tháng 9 năm 1973 - năm khởi đầu xây Lăng, Ban chỉ đạo đã sớm cho một bộ phận cán bộ kỹ thuật sang Liên Xô để tham gia thiết kế, nắm trước được thiết kế và học cả phương pháp thi công để về nước chỉ huy lắp đặt máy. Nhưng nay đứng trước những máy móc lớn, tối tân này, anh em ta vẫn không khỏi lo lày sẽ phải vất vả tìm hiểu vì đây là sản phảm làm từ tây Âu, nhiều phụ tùng, linh kiện, mô-đun... rất khác của Liên Xô. Nhưng các chuyên gia và anh em ta bắt tay nhau cùng hứa hẹn: Mọi chuyện rồi sẽ phải tốt đẹp cả.
Một cuộc "Thi đua lắp ráp 40 ngày" đã được lãnh đạo phát động khá tưng bừng, coi như đợt thi đua cuối cùng. Các đồng chí lãnh đạo dù sao vẫn hết sức căn dặn: "Phải hết sức thận trọng! Phải tỉ mỉ, chu đáo! Không được để xảy ra sai sót, dù chỉ một lỳ!". Rất cẩn thận, không những động viên, căn dặn, các đồng chí lãnh đạo còn tổ chức một bộ phận kỹ thuật để hỗ trợ anh em thi công, gồm khá đông đảo cán bộ chuyên môn giỏi của các ngành: kỹ sư, cán bộ kỹ thuật thông hơi, điều hoà, điện, cơ khí, cả cấp thoát nước và trắc đạc... Rồi tất cả cùng vào việc. Mặt bằng thi công có phần chặt hẹp. Các máy móc, kể các đường ống hơi, ống nước... hầu hết đều rất cồng kềnh và rất nặng. Lúc này trên Lăng, anh em làm trang trí vẫn còn một số việc chưa xong như sơn, trát vữa, kể cả thợ điện, thợ nước... cho nên trên một khu vực tác nghiệp mà gần như có đủ các thứ "Quân": thợ cơ khí lắp ráp, thợ xây, thợ điện, thợ nước... Phải lợi dụng dàn giáo và các phương tiện của nhau mà làm. Cán bộ chỉ huy các tổ lắp máy đã cùng anh em quyết định làm cả 3 ca và thêm kíp nữa... Quang cảnh tấp nập, và tựa như đèn cù: Mới đêm qua trong phòng này anh em xây còn làm chủ, sáng sớm mai anh em thợ điện đã "Xung phong" vào ngay với nào ống hơi, nào ống điện và leo trèo lên như vượn để lắp. kéo dây chằng chịt trên các bức tường... Công việc luôn luôn phải đan xen liên tục. Nhưng không vì thế mà làm ẩu. Anh em vẫn luôn nhớ câu: "Chất lượng là mệnh lệnh của trái tim". Và cùng nhắc nhau: "Đoàn kết hợp đồng". Không khí làm việc như có men say. Những sáng kiến to, nhỏ không ngừng nảy nở như: hệ thống lạnh ở phòng trung tâm của Bác đã được cán bộ, chiến sĩ cùng góp trí, góp sức cải tiến được hệ điều khiển, nếu cứ để thao tác bằng tay sẽ chậm, khả năng xử lý khi có sự cố e không kịp, và bình thường mỗi lần có người ra vào tiếp xúc với các máy, sự ổn định nhiệt độ trong phòng Bác sẽ dễ bị hở van đột ngột. Hoặc như trong "Hào thông hơi" từ phần ngầm lên tới tâng kỹ thuật cao 21 mét (trên mái Lăng), không những có 5 ống hơi lớn mà còn là vị trí của thang điện. Đường ống dài, theo phương thẳng đứng, các ống rất sát nhau không có chỗ để thao tác bảo ôn và xử lý độ kín của các mối nối... Vậy làm sao có thể lắp tốt, tránh được mọi nguy hiểm? Các kỹ sư và công nhân ta đã bàn nhau và đã có giải pháp: phân đường ống ra thành nhiều đoạn, mỗi đoạn từ 2 đến 3 ống ghép lại. Rồi dùng tời để kéo từng đoạn ống lên và liên kết các đoàn với nhau; cứ thế lần lượt lắp đến đoạn cuối cùng. Kết quả là 5 ống nước được lắp rất nhanh, chất lượng tốt, an toàn tuyệt đối cho người và thiết bị. Cùng với các sáng kiến, các tấm gương lao động quên mình cũng liên tiếp xuất hiện cả trong hàng ngũ cán bộ, cả trong chiến sĩ.
Và cứ như thế, cho tới đúng ngày thứ 40 của đợt thi đua mới, cũng coi như cuối cùng, tất cả cán bộ chiến sĩ đều reo vang: "Chiến thắng! Chiến thắng!". Ấy là một ngày cuối tháng 12 năm 1974 không quên, khi mùa đông đang vào thời kỳ rét ngọt, nhưng hương xuân mới - xuân ất Mão - đã sớm như phảng phát đâu đây để gợi báo những tin vui to lớn và lịch sử cho Hà Nội và nhân dân của miền Bắc: trong Nam ta đang đánh rất mạnh, càng đánh càng thắng, Thiệu đã có nguy cơ xụp đổ đến nơi...!
Cũng trong những ngày cuối tháng 12-1974 hết sức sôi nổi này, Bộ CT lại có một cuộc họp lớn hết sức quan trọng nữa với các Tư lệnh chiến trường triệu từ trong Nam ra, để nắm lại tình hình đang diễn ra rất mau lẹ, nhận định về thời cơ lớn liệu đã bắt đầu có dấu hiệu xuất hiện? Và xác định quyết tâm chiến lược đánh lớn, đánh ngay, nhằm sớm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Trong lúc này, ở Lăng Bác công việc cũng đang đi vào giai đoạn cuối rất khẩn trương, các đồng chí lãnh đạo cũng hạ quyết tâm dứt điểm hoàn thành đúng kế hoạch 2 năm xây dựng... Hai sự việc lớn ở hai đầu Tổ quốc dường như đã có sự trung hợp thật kỳ diệu.
Đã sang xuân 1975. Thêm rất nhiều tin mới nóng bỏng báo ra: Trong Nam, quân dân ta tiếp tục chiến thắng gần như chẻ tre. Đồng thời ngoài Bắc, nhân dân ở các tỉnh, các quân khu đều biết khá rõ: nhiều đơn vị của quân đội đã im nặng nhưng rất dồn dập, cấp tốc di chuyển, mà ai cũng có thể đoán biết là vào Nam để tăng cường sức chiến đấu cho Mặt trận. Ngay trong lòng Hà Nội, nhiều tướng lĩnh trên Bộ, nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp các quân binh chủng cũng hết sức nhanh gọn rời khỏi thành phố, mà các gia đình đều biết là cũng lên đường vào hoả tuyến. Chưa bao giờ có cảnh cả nước ra trận như khi ấy. Đi bằng xe hơi. Đi bằng xe lửa, Đi đường bộ. Đi đường biển. Đi cả trực thăng. Đi cả máy bay vận tải, vượt tuyến đêm đổ quân ngay trong lòng địch.
Thế rồi cuối tháng 4 trời đất như sáng loà. Tin vui bay về như pháo nổ như mưa hoa: Sài gòn đã được hoàn toàn giải phóng. Toàn miền Nam của Tổ quốc đã được giải phóng hoàn toàn!
Niềm vui tràn ngập từ các thôn xóm hẻo lánh cho tới tất cả các thành phố lớn, nhỏ, từ miền xuôi lên miền ngược, từ biển lên rừng... Niềm vui ngây ngất. Niềm vui không chỉ bật ra bao tiếng reo, tiếng cười, mà còn trào cả ra bao nước mặt sung sướng. Đất nước quả là chưa bao giờ có niềm vui to lớn và xúc động đến như thế. Có lẽ cũng vì máu xương dân ta đã đổ ra đã khá nhiều rồi, chiến tranh đã quá dài, trên thế gian này có lẽ gầy đây chưa đâu có cuộc chiến tranh liền 30 năm. Đã chiến tranh là có máu xương, có chia ly, đau khổ, có lỡ làng, cay đắng... và trăm điều, ngàn điều gian truân cực khổ khác. Nay nghe tin chiến thắng có người khóc nhiều hơn cả cười, vì quá mừng, quá vui - mừng vui như trong một cơn mê không dám tin ngay là có thực, nhất là vợ những người vợ lĩnh, cha mẹ già của những chiến sĩ đã ra đi biền biệt... Khóc và cười. Cười và khóc. Tưởng trong những ngày như cuồng cả lên vì đại thắng, không ai còn có thể làm gì nữa ngoài reo cườn và khóc-khóc vì mừng. Nhưng không phải thế. Ở công trường Lăng Bác và quảng trường Ba Đình dù có bị gián đoạn gần như mất một buổi sáng cực kỳ mừng vui, đến chiều mọi công việc vẫn lại tiếp tục. "Đại thắng rồi, toàn thắng rồi, gắng nữa lên để mau đón Bác trở về Thủ đô yêu quý!..." Các cán bộ càng ra sức động viên.
Tháng 5 năm 1975. Không khí chiến thắng vẫn còn như chưa hết ngây nhất. Dân Hà Nội càng đến xem xây dựng Lăng và quảng trường thường xuyên hơn. Hôm ấy, có ba người vốn chó nhiều "Duyên" với nơi đây từ lâu cũng đi xem. Đó là ông Phạm Văn Khoa nhà hoạt động sân khấu và viết kịch và là cán bộ Việt Minh từ tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, đã được thành uỷ Hà Nội trao cho trách nhiệm làm gấp lễ đài Ba Đình để kịp ngày 2-9-1945. Người bạn đã gắn bó cùng ông trong việc này là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh tác giả đã thiết kế lễ đài gọn nhẹ mà khá đẹp khi ấy. Người thứ ba là hoạ sĩ Trần Văn Hán, người cũng đã góp ý với ông Quỳnh vẽ kiểu lễ đài xưa cũng đi theo. Với tư cách những người đã trực tiếp làm lễ đài gỗ hồi cách mạng 8 - 1945, lần nào tới đây, ba ông đều được mời vào trong hàng rào công trường chưa dỡ, được tới gần Lăng và ra cả quảng trường. Coi như "Người nhà".
Cả ba đều ngạc nhiên và thích thú: Toàn bộ Lăng đã được dỡ bỏ các dàn giáo, hiện ra như mới lạ, và đẹp hơn lên nhiều so với khi còn bị dàn giáo vây quanh dày đặc, dù khi ấy vẫn nom thấy được, nhưng không sướng mặt như hôm nay.
- Hôm nay mới thực sự được xem rõ. Khá lắm! phải không hai "Ông?". Kiểu dáng không giống đâu hết, từ Âu sang á, cả Mỹ la tinh. Việt Nam lắm! Dản dị, thanh nhã mà cao quý!. Dân gian mà hiện đại! Không hề nệ cổ tí nào. Đúng là tính cách của "Cụ". Phải không? Ông Khoa nói đầy sảng khoái.
Ông Quỳnh gật đầu:
- Còn một vẻ gì như sâu xa lắm nữa, các anh ạ. Càng thấy làm Lăng để lưu giữ "Cụ" là phải quá. Thử hỏi, đấy, bây giờ đại thắng rồi, ít nữa bà con trong Nam ra còn thấy ai? Vẫn được trông thấy Cụ là một chuyện lớn lắm, thiêng liêng lắm, vĩ đại lắm các anh ạ, tôi nghĩ Thế!
Đứng ngắm mãi, dường như càng ngắm lại càng thấy đẹp. Việt Nam có chữ "Duyên thầm". Phải chăng ở đây đúng là một vẻ đẹp hoàn toàn không phô trương, không loè loẹt, diêm dúa, không trạm trổ, hoa lá, rồng phượng... cầu kỳ. ở đây là một vẻ đẹp với hầu như chỉ toàn mặt phẳng với những đường thẳng ngang dọc rõ ràng, dứt khoát, nhưng lại rất thanh tao, mềm mại và sâu kín như ông Ngô Huy Quỳnh nới. Càng ngắm càng thấy ý nhị, càng thấy gần gũi, càng thấy nhuần nhị, sang trọng mà kín đáo, cao quý mà dung dị...
Rồi cả ba cùng quay ra quảng trường. Nơi đây cũng vẫn chưa hoàn toàn xong tựa như bên Lăng cũng vẫn còn một số việc dù không lớn nhưng phải giải quyết nốt cho thật hoàn chỉnh cả trong lẫn ngoài. Nam nữ thanh niên, công nhân và cả bộ đội vẫn còn khá đông, nhộn nhịp khắp chỗ. Nơi vẫn còn đang đặt tiếp các công tiêu nước quanh quảng trường. Nơi vẫn đang chôn nốt các cáp ngầm cho hệ thống phát thanh và truyền hình. Nhưng tất cả trên 168 ô vuông cả xanh đã xong cùng những con đường bê tông phủ sỏi chạy ngang dọc đều tăm tắp. Tất cả đã tạo cho quảng trường nay đã khá rộng lớn hơn, một kiểu trang trí mặt bằng đẹp và độc đáo có lẽ trên thế giới này không đâu có. Đứng ngắm mãi sân cỏ đặc biệt ấy, sau đó ba ông bạn rủ nhau đi xem hoa và cây cảnh mà theo các ông cũng là một đặc điểm nữa của quảng trường hôm nay. Thật vậy, mặt bằng 3 ha với 168 ô cả xanh cùng những con đường sỏi ngang dọc như bàn cờ, và hoa và cây cảnh như cả một thế giới hoa tươi đẹp của Việt Nam được thu nhỏ lại quanh Lăng và quảng trường là hai đặc điểm nhất ở đây mà không phải ở đâu đâu cũng có. Ba ông bạn cùng đi tới cửa Lăng để ngắm hai cây đại rất đẹp, tuy không là loại cây lạ nhưng quả là mà hai ông chưa từng thấy ở đâu có. Cây đại như ở đây. Không cao, nhưng cành mập, khoẻ, dáng tròn, đẹp một cách rất cổ kính, hoa trắng thơm - mùi thơm rất hiền triết làm tăng thêm vẻ trang nghiêm và siêu thoát của công trình. Nhìn ra đường Hùng Vương chạy ngang qua ngay trước Lăng - nay đã được cải tạo lại mặt bằng rộng 60 mét bằng bê tông cốt thép để có thể diễu binh lớn với xe pháo hạng nặng. Dọc con đường đó là hai hàng Vạn tuế trông trước hai lễ đài hai bên chính Lăng. Vạn tuế cũng không phải loại cây lạ nhưng quý với thân mập thẳng, lá xum xuê trên ngọn, xanh ngắt, nom trang nghiêm như hai hàng tiêu binh đứng gác trước Lăng. Bên kia đường Hùng Vương còn có hai hàng Chò nâu từ đất tổ Hùng Vương đem về, với thân cao, thẳng, tán lá rộng xanh xẫm, dáng thật mạnh mẽ, hiên ngang tạo nên ý tưởng về một sự bền vững, bất khuất... Và ở hai đầu ngoài cùng của hai lễ đài là hai dặng tre luông mập mạp, cao lớn, xanh tốt lạ thường tạo nên rất rõ hình ảnh của dân tộc gốc từ nông nghiệp lớn lên phồn vinh, mạnh mẽ... Rồi ba ông ba đi vào phía sau Lăng, nơi càng như "Muôn hồng ngàn tía" với hàng trăm, hàng trăm loài hoa đẹp và quý của các nơi trên cả nước gửi về dâng Bác. Từ các loài hoa của Nam bộ, khu 5, Tây nguyên, Trị - Thiên gửi ra cho tới không thiếu thứ hoa quý hiếm nào ở khắp miền Bắc từ Hà Giang Lai Châu, Lạng Sơn, Cao Bằng xuống tới Quảng Ninh, Móng Cái và khắp cả khu 4 với Thanh - Nghệ - Hà - Quảng... Tất cả có thể gọi là cả một tiểu thế giới hoa tươi và canh xanh, cây thế trăm tuổi, vài trăm tuổi... "Còn Người Thần tiên, hoa cỏ cũng thần tiên" Ông Phạm Văn Khoa luôn luôn thốt lên...
Cứ loanh quanh mãi trong thế giới của hương sắc - của kính yêu, của tôn kính, của bao nỗi tri ân - lúc sau, ba đó ông bạn mới quay đi, thì gặp ông Nguyễn Văn Tưởng chỉ huy lực lượng xây dựng quảng trường. Ông Tưởng rất mừng, vui vẻ cho biết tối nay Ban xây sựng Lăng được phép cấp trên sẽ bắt đầu cho thử toàn bộ đèn chiếu sáng ở Lăng và cả quảng trường. Ông mời ba vị nghệ sĩ - cũng là ba người đã có đóng góp vào quảng trưởng từ những ngày đầu Cách mạng thành công - tối nay cùng tới dự và góp thêm ý kiến. Tất nhiên không cần phải trao đổi ý kiến, cả ba ông bạn vui vẻ nhận lời.
Buổi tối hôm đó, đúng hẹn, khoảng 8 giờ 30, tất cả các loại đèn chiếu ở Lăng và trên quảng trường cùng mở. Cả trời, đất đều như bật sáng loà. Giữa vùng ánh sáng ấy, toà Lăng như toàn bằng ngọc khối sáng ngời, lấp lánh, hiện lên từ một truyện thần tiên. Huyền diệu quá! Dân đi ngang qua ai ai cũng phải dừng lại, bu tới quanh hàng rào chưa dỡ bỏ, mỗi lúc một đông nghẹt, Đúng là trước mắt họ là cả một thế giới như siêu thực, lung linh kỳ diệu, mà nổi nhất, đẹp nhất vẫn là toàn Lăng với khối chính giữa vuông vắn, mái cao thoáng lướt cong tựa đền đài mà cũng như một lâu đài cùng với hai khán lễ xoè ra ở hai bên càng làm tăng thêm vẻ bề thế uy nghi... "Ô, Bác đã về hay sao ấy?" - "Bác đã về, đúng là Bác đã về rồi đấy!"! Không ai bảo ai, dân chúng cùng xôn xao xúc động. Trước mắt họ "Toà lâu đài" vẫn lung linh trong vùng ánh áng ngời ngời như trong mơ.
Đứng dưới chân toà Lăng gần như đầy đủ các đồng chí trong Ban xây dựng, Ban chỉ huy công trường 75808 và đông đảo cán bộ và quan chức của thành phố. Có cả hầu hết các chuyên gia Liên Xô. Trong khung cảnh huy hoàng này, bỗng một người nào đó trong đám đông quan chức thốt lên: "Chưa khánh thành, nhưng đêm nay cũng như khánh thành sơ bộ vậy - buổi khánh thành ánh sáng tuyệt vời!" Mọi người cùng quay lại, cười như tán thành ý nghĩa vui vẻ, vừa lúc đó cả đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng tới hoà mình vào đám đông công nhân, cán bộ, quan chức ấy. Các đồng chí ngửa mặt lên ngắm nhìm mãi toà Lăng, cùng quảng trường mới. Quảng trường như càng sáng loà ánh điện. Tất cả anh chị em công nhân đều được ra đứng kín hết các ô cả xanh. Dưới ánh đèn, cỏ xanh dường như càng thêm xanh mướt, xanh đến lạ lùng, xanh như mời gọi. Một đồng chí trong Bộ CT bỗng quay sang phía đồng chí Đỗ Mười đứng bên cạnh hỏi: "Sao không cho thủ loa luôn? Tiếng hát cất lên lúc này cũng tốt đấy chứ!". Thế là chỉ sau khoảng gần mười phút, trên khắp các dàn hoa lớn mới tinh khôi ở chung quanh quảng trường cùng vang lên một bài ca quá đỗi quen thuộc của dân ta: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng...". Khi tất cả bằng ấy con người trước Lăng và quanh quảng trường, rung chuyển cả thành phố. Hát và hát say sưa, đến chảy cả nước mắt. Tất cả như cảm thấy không phải chỉ tâm hồn mình bay bay lên theo lời ca, không phải chỉ ở nơi đây mà còn như bay mãi tới tận nơi xa, nơi kính yêu...
BÁC CÒN SỐNG MÃI VỚI NON SÔNG ĐẤT NƯỚC
Đã vào hè 1975. Phượng đã nở đỏ tưng bừng khắp nơi, ve đã râm ran trên khắp các đường phố Hà Nội. Sen cũng đã nhát thơm ở Hồ Tây. Nhưng Thủ đô vẫn dường như chưa hết ngây nhất vui mừng vì đại thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Đất nước.
Trên một vùng đồi núi xa, các cán bộ chiến sĩ đoàn 69 - đoàn có trọng trách thiêng liêng bảo vệ thi hài Bác ngày tạm xa Hà Nội lên đây - nay trong những ngày đầu tháng 5 này, ngoài sự mừng vui đại thắng, Đoàn còn có cả sự hồi hộp mong chờ ngày sẽ được rước Bác trở về thủ đô. Đoàn đã được lệnh của Bộ cho quân liên tục tập luyện sẵn mọi mặt, với các tình huống khác nhau theo giả định, để sẵn sàng đón nhận lệnh cụ thể...
Và đã sang tháng 7, toàn đơn vị cùng toàn thể các bác sĩ, y sĩ phụ trách thuốc men... đều như reo cả lên. Điều mong chờ đã đến: đã có chỉ thị của Bộ CT và Quân uỷ cho đoàn 69 chuẩn bị mọi mặt để rước Bác trở về Thủ đô. Dịp này Chính phủ và Đảng cũng sẽ tổ chức luôn lễ khánh thành Lăng Bác và mừng Đất nước toàn thắng, và cũng là mừng quốc khánh 2 tháng 9 năm 1975...
Một trong những công việc đầu tiêu của 69 là kiểm tra, sửa soạn tất cả xe cộ, đồng thời sửa sang lại đường xá, và tổ chức bảo vệ an ninh suốt dọc đường từ K84 qua Sơn Tây - con đường vốn đã rất xấu vừa qua lại có chủ ý còn muốn để cho như hoang hoá từ lâu, nhằm tránh mọi con mắt xấu tò mò ngó tới nơi K84 nơi đang bảo vệ Bác trong gần 6 năm đã qua...
Trong khi đó ở Hà Nội, lữ đoàn 144 cũng hết sức vui mừng được lệnh phái 150 sĩ quan và chiến sĩ hành quân bằng cơ giới lên một vùng đồi ở Phú Thọ dựng lên cả mô hình bằng tre nứa tựa như Lăng Bác, để luyện tập về phục vụ ngày đón Bác về, và cả những ngày lễ lớn sau đó, theo đúng quy cách quốc và cả quốc tế. Rồi tập cả mọi công việc bảo vệ an ninh tuyệt đối... Tất cả phải hết sức thuần thục. Và lữ đoàn đã được đổi phiên hiệu thành Lữ đoàn 250 với nhiệm vụ chính thức lâu dài là chuyện thực hiện việc gác tiêu binh danh dự ở LăngBác và bảo vệ an toàn toàn khu vực Lăng...
Thế rồi ngày 26 tháng 5 - 1975, một ngày không sao quên với đoàn 69 lệnh của Bộ Quốc phòng được đưa tới: Đoàn 69 chuẩn bị tích cực chu đáo nhất để sẵn sàng nhận lệnh rước Bác về Thủ đô.
Cả đoàn gần như nổ tung trong niềm vui khôn tả. Đảng uỷ Đoàn họp ngay bàn kế hoạch hành quân.
Rất mau lẹ, tất cả mọi việc chuẩn bị trong ngoài đã hoàn tất và được báo cáo lên Bộ. Ngày chính thức đón Bác về Thủ đô đã được Bộ ấn định: 17 tháng 7 - 1975. Ở Hà Nội mọi công việc, mọi mặt để đón Bác về Lăng cũng đã chuẩn bị hoàn hảo.
Ấy là buổi chiều muộn khô ráo, hoàng hôn tuyệt đẹp đỏ rực cả trời tây. Trời đấy và tất cả sơn hệ Ba Vì hùng vĩ cũng như hướng cả về K84 để vọng tiễn người Anh hùng trở về kinh thành, với tất cả sự huy hoàng và niềm tôn kính thiêng liêng...
20 giờ tối hôm ấy đoàn xe về tới quảng trường Ba Đình đã sáng loà như trong cả một trời ánh điện. Trong vùng sáng tuyệt vời ấy, toà Lăng càng nổi bật lên y như một đài sen Thần đang mở ra chờ đón vĩ nhân kiệt xuất của dân tộc ta mà cũng là của cả thế giới nô lệ lầm than được giải phóng trở vệ. Tất cả các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ đều đã đến đông đủ Không thiếu cả ông Vũ Kỳ người thư ký vô cùng tin cậy của Bác và cả nhóm các kỹ sư, cán bộ đã làm nên lễ đài đầu tiên ở chính nơi đây hồi cách mạng tháng 8 năm 1945. Có cả một số anh hùng dũng sĩ thời chống Pháp, chống Mỹ nổi tiếng cũng có mặt...
Khi cả đoàn xe rước Bác long trọng và trang nghiêm từ từ dừng bánh trước Lăng, đồng chí Nguyễn LươngBằng thay mặt Bộ CT trước hết bầy tỏ nỗi vui mừng khôn xiết của Đảng và Chính phủ trước lĩnh cữu Bác đã về tới đây - Thủ đô của cả nước. Rồi thay mặt Trung ương, Bộ CT đồng chí cám ơn toàn thể nhân dân ta từ Bắc tới Nam, trong đó có quân đội anh hùng của ta, cám ơn cả Liên Xô cùng các chuyên gia, cám ơn cả bạn bè trên thế giới đã giúp đỡ ta chí tình trong việc lưu giữ thi hài Bác tới việc xây Lăng thành công... để hôm nay đã có thể cùng nhau long trọng đón Bác trở về...
Trong không khí hết sức thiêng liêng và xúc động mỗi lúc một thêm dào dạt, hai cánh cửa Lăng từ từ được mở rộng. Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ cùng bước nhanh tới chiếc xe Rap chở lĩnh cữu Bác. Những người chí sĩ mặc đại lễ phục cũng rất may mắn tiến lại và với những động tác cực kỳ thuần thục được tập luyện từ lâu, cùng theo hiệu lệnh rước Bác vào Lăng trên những bước chân cực kỳ trang trọng và uy nghiêm.
Giây phút quá thiêng liêng. Nhìn Bác vẫn với chòm râu thông thái, với vầng trán bao la, và cả gương mặt cao quý, bao dung... nằm bình yên như ngủ trên chiếc giường đồng và trong lồng kính trong suốt lước qua chầm chậm, nước mắt nhiều người lại trào ra. Ai cũng muốn chạy theo. Ai cũng muốn thốt lên, kêu lên "Bác ơ! Bác ơi!..." cùng những lời thiết tha cháy bỏng của lòng mình. Nhưng rồi Bác đã tới Lăng... Vf hai cánh cửa Lăng đã từ từ khép lại. Cũng lúc đó xuất hiện hai chiến sĩ mặc đại lễ phục trắng với quân hàm, quân hiệu, và huân chương rực rỡ, đứng gác như hai pho tượng ở hai bên cửa, nghiêm trang, tuyệt đẹp canh giấc ngủ cho Bác. Hai chiến sĩ tiêu binh danh dự đầu tiên đó là hai đồng chí Nông Văn Thành và Nguyễn Văn Rỉ - một người ở Việt Bắc - Cao Bằng, một người ở Nghệ An quê Bác...
Một tháng sau. Mùa thu đã hiện diện với lá vàng lượn bay trên các đường phố và trên mặt Hồ gươm. Mây trắng xốp như đi đâu vắng mãi, nay cũng đã trở về lang thang, nhởn nhơ trên bầu trời bao la theo thiết xanh của Hà Nội.
Ngày 29 tháng 8-1975 đúng như kế hoạch, Chính phủ và Trung ương Đảng đã tổ chức lễ khánh thành Lăng Bác. Lễ làm ở Hội trường Ba Đình nơi long trọng nhất ở bên kia quảng trường, đối diện với Lăng mới xây (Hội trường này nay đã được dỡ bỏ để xây nhà quốc hội mới). Hội trường được trang trí rất phù hợp với lễ khánh thành Lăng Bác, nên vô cùng trang trọng, có thể nói chưa bao giờ ở Hà Nội có buổi lễ đặc biệt như thế này. Người đến dự cũng đều xúc động lạ lùng.
Đã có đông đủ các nhà lãnh đạo, các quan chức chính phủ, và đại diện ưu tú của đủ các giới, các đoàn thể, các tầng lớp xã hội, và tôn giáo... Sự đông đảo hiếm có này đã đủ nói lên ý nghĩa, sự trang nghiêm và tầm cỡ của buổi lễ.
Sau những bài diễn văn súc tích và đầy tình cảm sâu nặng của các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh... và hai bài phát biểu cảm động của các đồng chí trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô và trưởng đoàn đại biểu Đảng cộng sản Trung Quốc... Rồi đồng chí Phùng Thế Tài Tổng Tham mưu phó quân đội cùng đồng chí Kinh Chi cục trưởng cục bảo vệ của quân đội được trao nhiệm vụ hướng dẫn các đoàn đại biểu sang bên Lăng để chính thức mở đầu cho tất cả muôn triệu buổi viếng đầu tiên, không khí càng đặc biệt. Đoàn nối đoàn, hết sức im lặng - nhưng trong sự im lặng ấy là cả một biển động của tiếc thương, yêu kính, và cả tri ân cùng sự quyết tâm đời đời đi theo mãi con đường cách mạng của Bác, ai ai cũng như muốn được chiêm ngưỡng Bác trước...
Thế rồi các đoàn đại biểu cùng nối tiếp nhau từ từ, càng hết sức nhẹ bước, đi qua hai chiến sĩ tiêu binh, rồi qua cửa chính, cùng vào tiền sảnh. Không ai bảo ai, tất cả cùng dừng lại giữa căn phòng ngắm nhìn hàng chữ "Không có gì quý hơn độc lập tự do" cùng chữ ký của Bác. Dòng chữ này đã được đọc, được nghe không biết bao lần, nhưng thật lạ, hôm nay vào đây tất cả mọi người đều có cảm tưởng như rất mới, và cảm xúc rất mạnh. Rồi các đoàn đại biểu lại nối tiếp nhau theo các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ lên tầng trên, cáng kính cẩn phòng trung tâm nơi i Bác đang nằm. Trong khung cảnh đặc biệt trang trọng, vừa thông thấy Bác, tất cả mọi người lại đều như choáng đi trong ngộn triều xúc động quá lớn. Thật vậy, tới đây mọi người đã được bằng chính mắt mình được chiêm ngưỡng Bác rõ hơn, sau 6 năm tạm xa cách vì chiến tranh và xây Lăng. Bây giờ Bác nằm đó đẹp quá, tao nhã quá, hiền từ và khoan hoà quá, y như một người ông, người cha vô cùng yêu quý, nhưng cũng là vị anh hùng giải phóng dân tộc, lừng danh thế giới mà UNESCO đã kính tặng danh hiệu "Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới". Người đã cùng Đảng ta đã không chỉ lãnh đạo toàn dân đánh thắng cả hai đế quốc hàng đầu thế giới, giải phóng hoàn toàn dân tộc khỏi chế độ nô lệ và thuộc địa kiểu mới trá hình, mà còn mở ra cả một thời đại mới cho dân tộc, cho nước nhà với thể chế chính trị Dan chủ cộng hoà, tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, trong quá khứ, các vua chúa nước nhà dù anh minh, dù có cứu nước chống ngoại xâm cũng vô cùng oanh liệt... hoặc trị dân tốt đẹp đến đâu, nhưng rút cục vẫn chỉ là chế độ phong kiến tập quyền cha truyền con nối, với nền nông nghiệp nghèo đói ngàn đời rồi. Cho tới bây giờ không có thể gọi là gì khác: Thời đại Hồ Chí Minh dân chủ và phồn vinh....
Sau đó mọi người lại hết sức nhẹ nhàng cùng nhau trở ra quảng trường. Liếc nhìn nhau cùng thấy dường như trên nhiều khoé mắt như vẫn còn ngấn lệ. Tuy nhiên dẫn sao cũng khác với cảnh khóc than như trong lễ tang khi Bác mất năm 1969, trong mọi nỗi xúc động, nhớ thương nay còn có cả ý thức tri ân, lòng hy vọng và niềm vui và tin tưởng rực sáng ở tương lai của dân tộc, của Đất nước mà Bác vẫn mãi mãi là chủ soái với tư tưởng, đường lối và tinh thần, tình cảm để lại.
Rồi mọi người ra về, nhưng vẫn còn ngoái lại ngắm nhìn toà Lăng. Như cùng thấy đẹp hơn, uy nghi hơn và còn thêm cả lòng thầm cám ơn những người đã xây Lăng, bảo vệ giữ gìn Lăng, cảm ơn cả những người đã chủ trường và quyết tâm lãnh đạo, tổ chức xây nên toà Lăng này...
Ba ngày sau, là lễ mừng quốc khánh 2 - 9 - 1975. Từ sáng sớm cả thành phố như đã đỏ rực mầu cờ. Nhân dân nội, ngoại thành đều sắm sửa chuẩn bị để đi dự mít tinh lớn ở quảng trường Ba Đình mới tân tạo với Lăng Bác mới được xây dựng. Những người dân Hà Nội đã sống ở đây từ đã lâu không khỏi liên tưởng tới cái đêm hôm trước và cả sáng 2 tháng 9 năm 1945 cùng nhau nô nức đi du dự cuộc mít tinh đón Chính phủ cách mạng ra mắt và Cụ Hồ công bố bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử trước toàn dân và toàn thế giới. Vậy nếu gọi Quốc khánh 1945 là Quốc Khánh của Tuyên ngôn độc lập, thì nay sau đúng 30 năm - sau hai cuộc kháng chiến đánh bại hai đế quốc hàng đầu thế giới - có thể gọi quốc khánh 2 - 9 - 1975 là quốc khánh của Đại thắng và hoàn toàn độc lập, thống nhất, cũng còn có thể gọi là quốc khánh của Lăng Bác một công trình lịch sử - văn hoá to lớn, trang trọng và nặng đầy ý nghĩa...
Sáng hôm ấy 2 - 9 - 1975 trời lại chiều người, nắng thu vàng như tơ. Trên mặt quảng trưởng nay đã được mở rộng rất khác xưa với hàng mấy trăm ô cỏ xanh đều tăm tắp - nhân dân đã đứng kín đặc mà vẫn hàng lối, trật tự, rất đẹp. Cờ đỏ tung bay rớp trời. Loa phóng thanh từ bốn phía luôn luôn cất lên những lời thông báo về chương trình đại lễ rồi phát to những bản nhạc cách mạng đầy khí phách và hùng tráng. Ai ai cũng cảm thấy rõ ràng nơi đây, đại lễ này quả là rất khác xưa, thật là hoành tráng.
Nhìn lên lễ đại mới nay ở trên cấp giật thứ hai của bệ Lăng rất bề thế ấy, nhân dân vui vẻ chỉ trỏ với nhau: Kia là các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh, kia là đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại tướng Văn Tiến Dũng... những vị mà nhân dân ngoài này đã được biết từ lâu. Còn kia là các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy từ miền nam mới ra - hoặc mới lần đầu xuất hiện trước đông đảo nhân dân: Các đồng chí Chu Huy Mân, Võ Chí Công, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Thọ... Nhìn sang lễ đài hai cánh: các đại biểu cũng đã ngồi kín trong đó thấy rõ những chiến sĩ đội mũ tai bèo và những cán bộ mặc áo bà ba nom rất thân thương...
Thế rồi cuộc diễu hành của nhân dân như gấm như hoa từng đoàn diễu qua Lăng và khán đài. Trước hết là các đoàn và nhóm đại biểu của nhân dân miền trong ra; Nam bộ, Tây nguyên, Liên khu 5, Trị-Thiên... Tất nhiên xa xôi không ra được đông nhưng cũng rất tưng bừng, náo nhiệt với cơ hoa cùng biết bao nụ cười rạng rỡ. Đặc biệt, xen kẽ với những nụ cười có cả những giọt nước mắt và tiếng gọi Bác với tất cả niềm thương nhớ cùng lòng tôn kính, tri ân. Có đoàn dừng hẳn lại trước Lăng Bác và lễ đài để vẫy cờ và hô vang những lời thiết tha nồng cháy... Rồi tới các đoàn miền Bắc. Rất đông đảo. Gần như bất tận. Có đoàn còn đem theo đàn sáo và ca hát vang trời ... Những người trên lễ đài ở hai bên Lăng, cả những đồng chí lãnh đạo đứng trên lễ đài chính cũng không khỏi hết sức xúc động trước hình ảnh cụ thể của niềm vui sướng của cả dân tộc khi đã được hoàn toàn độc lập thống nhất sau bao năm trời bị chia cắt đau khổ và chiến tranh tàn khốc.
Ở dưới dường Hùng Vương, dòng người vẫn nối tiếp diễu qua với cờ, hoa, biểu ngữ và những lời hô, tiếng hát. Trên lễ đài chính, các đồng chí lãnh đạo cũng liên tục giơ tay vẫy chào lại mọi tầng lớp nhân dân yêu quý. Tuy nhiên, dù vui bao nhiêu, mừng bao nhiêu, nhìn lên mọi người vẫn không sao quên cũng ở trên lễ đài này, những năm qua còn có cả một bàn tay cầm một cầm một chiếc mỹ cứng đã cũ vẫy vẫy, với một vầng trán mênh mông, một đôi mắt sáng như sao và một nụ cười hiền triệt, một chòm râu thông thái...
Buổi đại mít tinh đã kết thúc bằng cuộc cũng là đại diễu binh chưa từng có: Thuỷ, lục, không quân các đơn vị vũ khí nặng từ các loại pháo binh, cao xạ, tên lửa... đến các loại xe bọc thép và xe tăng đi qua làm rung chuyển cả không gin cả mặt đường Hùng Vương đã được hoàn toàn làm bằng bê tông cốt thép... Và kết thúc là những phi độc Mic hùng mạnh, hiện đại bay theo đội hình những mũi tên, và thả theo sau những vệt khói dài mang mầu cờ Tổ quốc... Những đợt sóng hoan hô, vỗ lại cuốn lên tưng bừng, nồng nhiệt, kéo dài đến như say mê không dứt từ hàng ngàn, hàng ngàn người đi xem đứng kín dọc tất cả các con đường chung quanh quảng trường. Trong lúc đó, nhân dân trong toàn thành phố cũng đổ cả ra đường, ngửa mặt lên tươi cười nhìn xem: "Míc của mình" gầm vang, rạch trời bay qua, nghiêng cánh chào tất cả đồng bào yêu quý.
Cuộc đại mít tinh và diễu binh lịch sử 2 tháng 9 năm 1975 của Nước nhà sau bao nhiêu năm bị chia cắt và chiến tranh vô cùng ác liệt đã kết thúc, đồng thời đánh dấu sự bắt đầu mở ra một thời kỳ mới huy hoàng trong lịch sử của Đất nước: Thời kỳ Hoà bình vững vàng dựng xây Tổ quốc theo đúng những gì mà Bác Hồ đã chỉ bảo...
Cũng từ đó coi như sự nghiệp của các lực lượng giữ gìn, bảo vệ thi hài Bác bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới với những yêu cầu mới.
Xuất phát từ nhiệm vụ mới và hoàn cảnh mới các nhà lãnh đạo ở trên đã phải nghĩ ngay tới hai việc trước hết: một là ổn định và củng cố nơi ăn chốn ở cho tất cả anh em phục vụ chung quanh Lăng. Vừa qua, trong suốt hai năm xây dựng Lăng tất cả các lán trại của các bộ phận đều rất tạm bợ; một phần tập trung ở khu vực gọi là nhà tập thể cấp 4 một tầng, cũ ký, rất chặt chội ở số 1 phố Ông Ích Khiêm, một phần phải ở lán làm tạm ngay sau Lăng, ngày ngày mưa giột, nắng xiên... Nay Lăng đã bắt đầu đi vào hoạt động, các đồng chí cấp trên đã thấy không thể để anh em sống tạm bợ mãi nữa. Tuy nhiên, công tác tổ chức vẫn phải được rất quan tâm hàng đầu. Chình vì vậy, ngày 28 tháng 12 cùng năm 1975. Quân uỷ Trung ương đã ra Nghị quyết về việc tổ chức Đơn vị bộ đội bảo vệ Lăng, để thống nhất chỉ huy và điều hành mọi công việc trong Lăng... Qua mấy tháng hoạt động, lại rút kinh nghiệm, thấy cần tiến thêm một bước nữa về tổ chức, ngày 14 tháng 5 năm sau (1976) Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, với phiên hiệu là Đoàn 969 (trên cơ sở của đoàn 69 đã hoạt động hết lòng với nhiều công tích trong những năm qua). Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng được thành lập là mọi sự kiện lịch sử đánh dấu bước trưởng thành của các lực lượng bảo vệ Lăng, giữ gìn thi hài Bác và cũng là sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng này. Bước đầu đại tá Lương Soạn làm quyền Tư lệnh. Sau đó hai năm lực lượng 969 càng phát triển, đồng chí thiếu tướng Kinh Chi được bổ nhiệm Tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ Tư lệnh Lăng...
Từ đó tới nay, đã trải qua nhiều thế hệ Bộ Tư lệnh giầu năng lực và tinh thần trách nhiệm cao nối tiếp nhau, đời sống cán bộ chiến sĩ phục vụ Lăng được cải thiện, rõ rệt, nhất là càng thu được nhiều kết quả trong sứ mạng cơ bản của mình, trước hết là trực tiếp chăm lo giữ gìn thi hài Bác cùng các nhà khoa học, y học Việt Nam và chuyên gia Liên Xô. Thứ hai: Quản lý sử dụng tốt các thiết bị, máy móc và các công trình kỹ thuật trong Lăng. Thứ ba: - Tổ chức gác danh dự và bảo vệ an toàn khu vực Lăng ngày đi vào nền nếp và hoàn hảo, hướng dẫn hết sức chu đáo các đoàn khách quốc tế và nhân dân ta vào viếng Bác, và thứ tư là chăm lo, cải thiện đời sống của cán bộ chiến sĩ trong Đoàn.
Do vậy Lăng Bác ngày ngày được củng cố, hoàn thiện, càng nổi rõ lên là một công trình lịch sử, văn hoá và tâm linh vô cùng quan trọng của Đất nước - một công trình như biểu tượng không những của lòng yêu kính và tri ân Bác, và biểu tưởng của niềm tin như núi lớn không gì lay chuyển nổi của nhân dân ta đối với tư tưởng và đường lối Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh do Người lãnh đạo, xây dựng... Thêm nữa, bản thân toà Lăng cùng các công trình, cơ sở chung quanh như quảng trường Ba Đình, khu di tích Bác Hồ trong phủ Chủ tịch... cộng thêm một ngôi chùa cổ kính rất nổi tiếng ở gần bên đó là chùa Một cột, tất cả đã trở thành một khu vực lịch sử, văn hoá lớn của Thành phố và của cả nước....
Vĩ thanh
Và năm 2010 đã tới. Không khí Hà Nội cùng cả nước đã khá sớm xôn sang chờ đón xuân mới Canh Dần và đại lễ 1000 mừng năm Thăng Long - Hà Nội, cùng chào mừng kỷ niệm 35 năm xây dựng Lăng Bác. Thật vậy, năm nay 2010 là năm thứ 35 năm của Lăng Bác.
Cũng như mọi năm, giáp Tết rồi, hoa đào và quất vàng đã xuất hiện trên nhiều đường phố Hà Nội cùng với đủ loại hoa tươi khác. Mưa xuân cũng sớm lay bay với triệu triệu bụi nước li ti như bụi ngọc rơi đậu trên đầu, trên vai áo các chàng trai, các thiếu nữ Thủ đô vô tư như bươm cùng nhau lướt xe trên các đường phố để sắm Tết hoặc đi dạo đón mưa xuân đầy lãng mạn. Có những món, những cặp còn đưa nhau lượn lên khu Lăng Bác để được thoáng đãng hơn và ngắm cảnh. Nhưng không phải chỉ có lớp trẻ mà còn có cả nhiều người đứng tuổi, thậm chí có tuổi trong thành phố hoặc trẻ từ các tỉnh xa về Hà Nội có việc, hoặc sắm Tết, có người cũng đáo lên vùng Lăng dù có khí chỉ trong chốc lát. Có người là tri thức, có người là nghệ sĩ, có người là thương gia, có người chỉ là chủ của những gia đình bình thường nhưng có nền nếp, gia phong... Có cả những cựu chiến binh từ xa xôi mỗi khi ghé về Hà Nội cũng nhất định lại phải lên Lăng viếng Bác. Và một số sinh viên đi học ở nước ngoài tranh thủ về thăm nhà, cũng không quên lên Lăng để báo cáo và tạ ơn. Khách quốc tế những năm gần đây càng tới thăm Lăng nhiều hơn, từ Á sang Âu, tới Mỹ và Mỹ La tinh, và Trung cận đông Trung Hoa, Lào Campuchia... Đáng xúc động hơn là các trẻ em, tàn tật phải đi xe lăn, cũng đã xin được đưa vào Lăng. Các em đều khóc hết, có em khóc rũ như cha mẹ chết đã làm cho tất cả cán bộ đi cùng và cán bộ Vệ binh danh sự của Lăng cũng không thể cầm được nước mắt... Rồi bà con Việt Kiều về thăm quê, hầu như trong chương trình nếu không nói là hầu hết thì cũng không ít người cũng đều có buổi vào Lăng viếng Bác... Sổ vàng ghi cảm tưởng của khách 35 năm qua nay đã cao gần bằng đầu người, mà Ban quản lý Lăng nay vẫn còn lưu giữ. Trong hàng triệu lời của khách ghi lại, có những dòng của đoàn phụ nữ Mỹ: "Chúng tôi yêu mến đất nước Việt Nam, vì có lãnh tụ Hồ Chí Minh... Chúng tôi coi cụ là người của hoà bình, của tinh thần nhân đạo và trí tuệ lớn lao, cũng coi cụ như lãnh tụ của nhân dân tiến bộ của nước Mỹ...". Đoàn đại biểu của Eti-ô-pia cũng đã viết: "Bác Hồ không chỉ là lãnh tụ của Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức trên thế giới này cũng đang đấu tranh quét sạch chủ nghĩa đế quôc ra khỏi đất nước mình..."...
Những ngày qua công việc ở Lăng rất nhiều, nhưng lớn nhất là đã chuẩn bị tổ chức tổng kết và kỷ niệm 35 năm xây dựng Lăng Bác, đồng thời cũng để tham gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Về 35 năm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Lăng Bác, bản tổng kết đã chuẩn bị xong về cơ bản, đã đánh giá rất nghiêm túc những thành quả lớn rất tốt đẹp mà các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng bảo vệ Lăng đã hoàn thành, phát huy được ý nghĩa chính trị, văn hoá to lớn của công trình Lăng Bác. Bản tổng kết cũng đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu, đánh giá rất cao ý chí phi thường của các lực lượng bảo vệ Lăng Bác cùng với tinh thần phát huy nội lực, chủ động sáng tạo, vươn lên làm chủ vững chắc nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác, đồng thời quản lý, tôn tạo kiến trúc công trình Lăng, và cả Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ trên đường Bắc Sơn, đồng thời quản lý tốt quảng trường Ba Đình đã được cải tạo... Trong báo cáo tổng kết đã nhắc lại cả những khó khăn có khi tưởng chừng không vượt qua nổi, vậy mà với truyền thống "Trung hiếu vẹn toàn, đoàn kết hiệp đồng, tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo" toàn thể cán bộ chiến sĩ của Lăng đã vượt qua được hết, kể cả hai khó khăn lớn nhất không sao quên: đó là hồi 1979 có xung đột trên biên giới phía Bắc, và sau nữa là năm 1990 Liên Xô tan rã. Liên Xô tan rã, ta không còn viện trợ nữa, trong đó có dung dịch đặc biệt để lưu giữ thi hài Bác. Dưới chính quyền mới, liệu bên đó có còn giúp ta không? Vậy tính sao đây? Nhưng rồi ta vẫn không quên tình xưa nghĩa cuc giữa đôi bên đã lâu đời và cách ứng sử hiện tại của ta cũng rất đúng mức và chân tình, và nhất là do uy tín lớn của Bác, nên ban vẫn cung cấp cho ta dung dịch ấy theo thể thức có thanh toán. Cho tới năm 2003 ta đã đề nghị bạn đưa dung dịch và hoá chất sang sản xuất ở nước ta cho nhanh, đỡ công di chuyển vất vả và tốn kém, theo phương thức: ta trực tiếp sản xuất dung dịch, bạn sẽ làm cố vấn chỉ đạo cụ thể... Bạn đã đồng ý. Và cho tới nay học tập được thêm, có kinh nghiệm thêm, các cán bộ, chuyên viên của ta đã có thể hoàn toàn tự mình lo liệu pha chế được tất cả, và thi hài Bác vẫn luôn luôn được giữ tốt đẹp, đến mức gần đây nhiều chuyên gia của Liên Xô cũ như Viện sĩ Laphukin nguyên giám đốc trường Đại học y khoa Matxcova, đã cùng một số viện sĩ khác chuyên làm thuốc cho Bác trước đây - nay sang ta thăm và được vào Lăng viếng Bác, ông đã phải thốt lên: "Thật tuyệt vời! Sau 30 năm tôi mới trở lại đây, thấy diện mạo, thi hài Chủ tịch không có gì thay đổi: khuôn mặt bình yên và hai bàn tay đẹp của Người vẫn thế. Thể tích và hình dáng các phần mềm cũng không thấy có thay đổi" (trích)... Người ta hiểu đó là do công sức và trí tuệ, tài năng của các chuyên gia Việt Nam nhưng không thể thiếu công sức và tấm lòng của tất cả những người trong lực lượng bảo vệ Lăng và quản lý thi hài Bác. Ta cũng đã đưa được nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh sang Nga học. Bây giờ lực lượng khoa học y học của ta khá đông đảo... Có thể nói: ta đã như đi từ con số 0, nay đã có thể làm được tất cả và có thể đủ tất cả những gì cần thiết... Đó là một thành tích rất lớn mà bản tổng kết đã nhấn mạnh. Vấn đề thứ hai báo cáo tổng kết của Bộ Tư lệnh Lăng cũng chú ý nhiều là việc nhân dân cả nước cùng kiều bào ở nước ngoài về thăm gia đình, cùng khách quốc tế càng ngày càng đông đảo - nay đã tới hàng chục triệu lượt người thường xuyên vào Lăng viếng Bác, đã được luôn luôn chăm sóc rất chu đáo, không xảy ra thiếu sót gì nghiêm trọng, được khách trong nước, khách quốc tế và Việt kiều đều ca ngợi và cám ơn. Đó, cũng là một thắng lợi, thành tựu lớn. Còn một vấn đề rất quan trọng mà tổng kết cũng đã chú ý, đó là sự duy tu, bảo dưỡng các loại máy móc vận hành trong Lăng. Qua 35 năm "Chạy" liên tục dù anh em hết sức trông nom, bảo trì, nhưng rồi máy nào cũng phải cũ mòn và dần hư hỏng. Đã dần dần được thay thế. Chơ tới nay gần như máy móc các loại trong Lăng đều là máy mới và hiện đại hơn trước. Thêm nữa, công tác quản lý, tôn tạo kiến trúc công trình Lăng, Đài tưởng niệm các liệt sĩ, anh hùng, cùng quảng trường Ba Đình... cũng đã được các cán bộ chiến sĩ trong Lăng rất có ý thức trông nom, và tiếp tục tôn tạo rất khang trang cùng với các công trình khác chung quanh cùng tạo nên một khu vực lớn về lịch sử, văn hoá của Thủ đô và của cả nước... mà ai ai từ người trong nước tới khách nước ngoài và kiều bào đều rất tôn quý...
Ngoài việc chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm 35 năm với bản tổng kết quan trọng ấy, Bộ Tư lệnh Lăng cùng các cơ quan chính trị, tham mưu, hậu cần còn đề ra một số việc bổ ích trong năm 2010, mà trong đó có một chương trình rất thú vị là lần đầu tiên có chủ trương sẽ cho khách tham quan được lên thăm khu Di tích Đá Chông rất đặc biệt, nơi đã rước Bác tới tạm tránh những tháng năm bom đạn Mỹ, hồi cuối chiến tranh.
.... Mưa bụi vẫn lay bay trên bầu trời Hà Nội, những gánh hàng hoa, những xe hoa... vẫn nườm nượp nối nhau tiếp tục vào thành phố. Cũng như một số người vẫn thi thoảng lại lên Lăng, tôi cũng không thể ngồi viết mãi trong không khí xôn xang này, nên đã tạm dẹp công việc, cũng lên khu Lăng trong chốc lát cho đầu óc được thư dãn, và cũng để ngắm "Thiên hạ" chuẩn bị vào xuân. Cũng lạ, lần nào lên đây, lại vẫn nhớ tới những bài thơ hay của nhiều nhà thơ đã viết hồi Bác mới qua đời, trong đó có bài thơ mà tôi cho là bất hủ của Viên Phương - nhà thơ miền Nam - viết ngay từ cuối năm 1975 khi anh ra viếng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm Lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua Lăng Bác
Thấy một mặt trời trong Lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân
Bác nắm trong giấc nhủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh Lăng Bác
Muốn làm bông hoa thơm nhát đâu đây
Muốn làm cây tra trung hiếu chốn này...
Cũng lại nhớ tới mấy câu thơ hết sức ngắn, hết sức kiệm lời mà đầy rung động sâu xa của một nhà thơ Nhật bản - một cao tăng đã trên 100 tuổi - cụ Rio Onisi:
Trời xanh đón người cứu nước đi xa
Đau lòng chúng sinh trên đường mê
Thế gian nay mất lão anh kiệt
Lá thu rụng rơi, đời ủ ê...
Tất nhiên tôi cũng không quên mấy khổ trong một bài thơ dài của Tố Hữu nhà thơ lớn của ta:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cam, mấy gốc dừa...
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười...
Mưa vẫn bay và hoa đào vẫn tiếp tục vào thành phối. Tôi ngắm nhìn toà Lăng mờ áo trong bui mưa như khói như sương với biết bao gợi cảm. Trong nắng sớm toà Lăng đã rất đẹp với vẻ vững bền, bề thế, uy nghi, lúc nay trong mưa xuân toà Lăng lại có vẻ đẹp khác: lung linh tựa như một lâu đài trong cổ tích. Nhưng tôi cũng hiểu cảm nghĩ ấy không phải là chỉ do vẻ đẹp của kiến trúc công với những gợi cảm của thiên nhiên, mà vẻ đẹp hồn cốt của Lăng chính là vì Bác đang có ở đó. Cùng với Lăng này Bác càng mãi mãi hiện diện với đời, với dân tộc, với con cháu....
Không còn mưa nữa. Mặt trời đã ló ra, rạng rỡ, ấm áp đến nồng nà. Những gương mặt chung quanh tôi đều như sáng cả lên. Mùa xuân. Mùa xuân sắp tới rồi! Vẫn còn không ít người đứng đó trên các con đường quanh Lăng. Lúc này màu đá hoa cương như không còn là màu xám xanh. Lăng nổi bật lên như một toà lâu đài hồng tươi trong nắng vừa được lọc sau mưa. Và từng đoàn người xa gần, vẫn nối tiếp nhau vào Lăng viếng Bác như bất tận./.