Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, được thông qua ngày ngày 16/8/1945 tại Tân Trào
Cách mạng tháng Tám thắng lợi hoàn toàn không phải là một sự ngẫu nhiên mà là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng cộng sảng Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Để đi đến thành công của Cách mạng tháng Tám, Đảng ta phải trải qua 3 cuộc vận động cách mạng đầy gian khó là: Cuộc vận động những năm 1930 - 1935, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào cách mạng (1932-1935); cuộc vận động những năm 1936 - 1939, với cao trào là Mặt trân Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới; cuộc vận động những năm 1939 - 1945, Đảng ta đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trước tình hình thế giới đầy biến động, đầu năm 1945, phe Đồng minh đang thừa thắng xông lên giải phóng các nước bị phát xít chiếm đóng và tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít Đức, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật và chỉ trong một thời gian ngắn đã buộc phát xít Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Lúc này, Ban Thường vụ Trung ương họp và ra Nghị quyết nêu rõ: “ Kẻ thù số một của các dân tộc Đông Dương lúc này không phải là tất cả chủ nghĩa đế quốc mà chỉ là đế quốc phát xít, đặc biệt là phát xít Nhật - Pháp”. Hội nghị chỉ rõ, toàn bộ công tác của Đảng trong lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 3 năm 1945, Hội nghị Thường vụ Trung ương mở rộng họp và ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4 năm 1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang cướp kho thóc của Nhật để cứu đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc, mở Trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, phát động chiến tranh du kích ở những nơi có đủ điều kiện, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng. Từ đây cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 13/8/1945 đến ngày 15/8/1945 đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”, vì vậy phải “Kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi làm chủ”, tất cả vì mục tiêu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đến 23h ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp đó, ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Nam, thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ là lá cờ nền đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến Quân Ca và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta!”.
Ảnh Tư liệu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc Khởi nghĩa giành chính quyền trong khắp cả nước. Cuộc Tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14 tháng 8 và đến ngày 18 tháng 8, chúng ta đã giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam. Ngày 19 tháng 8, Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23 tháng 8, Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25 tháng 8, Khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre,... Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền trong cả nước thuộc về nhân dân.
Sáng 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ đó lịch sử Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Ảnh Tư liệu
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả tất yếu của 15 năm chuẩn bị chu đáo của Đảng ta, là kết quả của cuộc đấu tranh yêu nước rộng lớn của dân tộc, sự hy sinh anh dũng của đồng bào, đồng chí cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan được xiềng xích nô lệ của đế quốc thực dân và lật nhào được chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây nước Việt Nam là của người Việt Nam, Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền.
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến nay đã 67 năm, nhưng những giá trị lịch sử sâu sắc mà Cách mạng tháng Tám đem lại vẫn vẹn nguyên như thuở nào. Từ những bài học lịch sử sâu sắc đó mà Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng vào thực tiễn cuộc sống để đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kim Yến