“Mẹ làng Sen, mẹ làng Sen, Người mẹ Việt Nam đã cho đời người con quang vinh

Mẹ làng Sen, mẹ làng Sen, Người mẹ Việt Nam đã cho đời người anh hùng Hồ Chí Minh.”

Mỗi khi giai điệu của bài hát “Người mẹ làng Sen” ca ngợi bà Hoàng Thị Loan - mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại được ngân lên, chúng ta lại không khỏi bồi hồi xúc động. Đặc biệt là mỗi lần sắp đến Tết cổ truyền, vào ngày 22 tháng Chạp - ngày Bác Hồ phải vĩnh biệt mẹ của mình.

Bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901) sinh ra tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Truyền thống của gia đình nho học yêu nước, thương dân cùng những văn hóa cao đẹp của quê hương xứ Nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc tới bà, hình thành trong bà những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Vượt lên những quan niệm cổ hủ của xã hội về việc kết hôn phải môn đăng hộ đối: “trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi”, được sự động viên, ủng hộ của gia đình, Bà Hoàng Thị Loan đã mạnh dạn đem lòng yêu thương và kết duyên cùng cậu Nguyễn Sinh Sắc, người mồ côi cả cha lẫn mẹ và được gia đình mình đưa về nuôi cho ăn học trong nhà đã mấy năm nay. Ngày cưới của Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan được tổ chức vào mùa sen nở năm Quý Mùi (1883).

Tình yêu, sự đảm đang, tháo vát và hy sinh thầm lặng cho gia đình của bà Hoàng Thị Loan là nguồn động viên lớn lao, là cơ sở vững chắc trên con đường cử nghiệp của ông. Những tháng ngày vất vả, gian nan trên con đường cử nghiệp của ông Nguyễn Sinh Sắc đều có dấu ấn của người vợ hiền thảo, đảm đang. Bà đã luôn sát cánh bên ông, kiên trì động viên chồng dùi mài kinh sử để đi tới thành công trong cuộc đời thi cử của mình.

Ngôi nhà tranh ba gian ghi đậm dấu ấn những tháng ngày vất vả nhưng đầm ấm, hạnh phúc của gia đình bà. Ngày ngày, “Chồng miệt mài kinh sử, thiếp canh cửi đưa thoi”. Để chồng yên tâm học hành, bà Loan không quản ngại khó khăn, vất vả, một nắng hai sương lao động ngoài đồng ruộng, đến bữa về lo cơm nước cho chồng, cho con, tối đến ngồi trên khung cửi, vừa dệt vải, vừa đưa võng ru con ngủ, nhiều đêm thức tới khuya để động viên chồng ôn luyện văn chương, đỡ phần hiu quạnh. Bà không những chỉ tạo ra cơ sở vật chất đơn thuần, mà bà còn là người nối chí, tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho chồng. Con người Bà đã hội tụ đủ bốn đức tính của người phụ nữ truyền thống: công, dung, ngôn, hạnh.

Năm 1895, ông Sắc đủ tiêu chuẩn vào làm giám sinh trong Quốc Tử Giám để tu luyện văn chương, chờ kỳ thi Hội tới. Với mong muốn chồng tiếp tục học hành, đậu đạt cao hơn, bà đã gửi con gái đầu lòng mới 11 tuổi ở lại với mẹ già, rồi đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm (7 tuổi) và Nguyễn Sinh Cung (5 tuổi), gồng gánh theo chồng vào Huế để nuôi chồng, nuôi con, tạo điều kiện vật chất và tình cảm để chồng yên tâm học tập ở trường Quốc Tử Giám. Tình yêu, trách nhiệm với gia đình đã giúp Bà vượt qua những khó khăn bỡ ngỡ khi lần đầu tiên đặt chân lên nơi đất khách quê người, tiếp thêm sức mạnh cho Bà làm tròn vai trò của người vợ, người mẹ.

Hình ảnh người vợ chân đi dép mo cau, vai quẩy đôi gánh, một bên là con nhỏ, một bên là cả gia tài mang theo, vượt qua bao suối, bao đèo giữa những cơn mưa rào, giữa những ngày nắng gắt trên đường vào kinh đô Huế không bao giờ phai mờ trong tâm trí của ông Nguyễn Sinh Sắc. Nếu ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với các con là nền bác học với một nhân cách yêu nước thương nòi mang đậm tính nhân văn, thì ảnh hưởng từ người mẹ là nền văn hóa dân gian mang đậm truyền thống dân tộc và những phẩm chất của tầng lớp lao động bình dân in đậm trong tình mẫu tử. Bà đã nêu một tấm gương trong sáng về nhân cách đạo đức cho con cái học tập. Ở đâu Bà cũng thể hiện một lối sống vui vẻ, vô tư, có nghĩa, có tình được mọi người hết sức yêu mến và quý trọng.

Với tấm lòng nhân hậu và mẫn cảm của người mẹ, bà đã vun trồng, uốn nắn, dạy dỗ con cái những bài học đầu tiên về cách sống, về đạo lý làm người. Vì vậy, ngay từ thuở ấu thơ, các con của Bà đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt, biết kính trọng người trên, biết sống chan hòa với bạn bè, giàu lòng vị tha, nhân ái, biết nhường nhịn mọi người. Là một người có biết ít nhiều chữ thánh hiền, bà Hoàng Thị Loan đã dành rất nhiều tâm sức để truyền thụ cho con những hiểu biết ban đầu về thế giới tự nhiên và xã hội. Tất cả những câu hỏi ngây thơ, ngộ nghĩnh của con đều được bà tìm cách trả lời rõ ràng, cặn kẽ, dễ hiểu, như câu chuyện về hoa râm bụt: “Một hôm em Bác dựng một màn tuồng trong vở tuồng “Tiết Cương phá thiết khâu phần” của quan Thượng Thư Đào Tấn. Đám học trò này dùng mủ cây ruối, dán cánh hoa râm bụt lên má, trán, rốn, cằm, hóa trang vai tướng trung, mặt đỏ, dùng mực Nho vẽ mặt vai nịnh thần,vai ác. Diễn xong anh em Bác bị ngứa, gãi sưng tấy cả da mặt. Mẹ Bác bắt hai anh em Bác nằm vào giường để ăn roi; mẹ phạt thì em Bác thưa: “Mẹ ơi, con được mẹ cho cầm hoa râm bụt chơi, mẹ nói hoa này hiền như bụt, hoa lòng mẹ thì con mới dán hoa lên mặt, nào ngờ!”. Mẹ Bác phì cười: “Hoa râm bụt hiền nhưng nhựa cây ruối nó dữ, các con nhớ chưa?’. Mẹ Bác bỏ roi xuống”.1

Là một người mẹ cần cù, chăm chỉ, bà đã dạy cho các con biết yêu lao động, biết làm những công việc phù hợp với sức lực và lứa tuổi của mình một cách mê say, chịu khó và sáng tạo, tự lập trong cuộc sống. Chính nhờ vậy mà sau này khi các con của Bà phải sống xa bố mẹ, xa gia đình, xa quê hương vẫn giữ được tình yêu lao động, tự lập, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh hoa của văn hóa xứ Nghệ đã được thổi vào tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung từ thửa thiếu thời qua lời ru của mẹ. Những lời ru, tiếng hát ngọt ngào, chan chứa tình cảm và giá trị nhân văn sâu sắc của mẹ đã góp phần quan trọng hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Những giá trị văn hóa ấy đã theo Người trong suốt cả cuộc đời. Năm 1928, khi hoạt động yêu nước ở Thái Lan, một đêm khuya nghe tiếng chị Việt kiều hát ru con ngủ, Người đã thổn thức mà không ngủ được, sáng mai kể lại bằng một vần thơ: “Xa nhà chốc mấy mươi niên/ Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”. Kể cả trước lúc đi xa Người vẫn luôn khao khát được nghe làn điệu dân ca, điệu ví quê nhà.

Trong sinh hoạt hàng ngày, Bà sống rất giản dị, tiết kiệm, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà tập cho con làm những điều tốt và thực tế đã trở thành nếp sống quen thuộc hàng ngày của các con. Nếp sống giản dị, tiết kiệm nhưng thật thanh tao đó của Bà đã được phản ánh rõ ràng trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi cậu bé Nguyễn Sinh Cung mới 10 tuổi, bà Loan bị ốm phải nằm trên giường bệnh vì lao động quá sức, đời sống lại ngặt nghèo, thiếu thốn, sức khỏe suy giảm sau khi sinh người con trai út. Bà qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901 (tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý) khi mới 33 tuổi. 33 năm tuy ngắn ngủi nhưng Bà đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa và hạnh phúc bên gia đình, đóng góp quan trọng vào những thành công của chồng, của con.

Mo ba loan
Phần mộ của bà Hoàng Thị Loan.
Ảnh: http://www.khuditichkimlien.gov.vn

Những hy sinh, vất vả của mẹ vẫn luôn được Bác ghi nhớ trong tim. Một trong những câu chuyện được đồng chí Vũ Kỳ kể lại là một lần trên đường đi thăm hợp tác xã trồng cây giỏi ở huyện Quảng Oai (Hà Tây, nay là Hà Nội), nhìn thấy đoàn các em bé gái cổ quàng khăn đỏ, em mặc áo hoa xen em mặc áo trắng, tay cắp sách vừa ở trong trường ra, líu ríu như chim sổ lồng, Bác nói: Này! Các chú thấy không, các cháu được ăn mặc đẹp, được đi học, cháu nào cũng vui vẻ phấn khởi, Bác mừng cho các cháu. Rồi giọng Bác bỗng trầm hẳn xuống: “Lúc này Bác rất nhớ mẹ của Bác. Mẹ Bác rất thông minh, lại là con gái ông đồ nho. Thế mà mẹ Bác lại không được đến lớp, đến trường đâu các chú ạ. Cũng như phụ nữ ngày xưa, từ nhỏ mẹ Bác đã phải lo việc nhà". Mọi người cùng đi không nén nổi cảm xúc trước tình cảm của Bác đối với mẹ Bác…2

Sau khi mất, thi hài của Bà được mai táng ở núi Tam Tầng bên dòng sông Hương tại Huế. Năm 1922, hài cốt của Bà được cô Thanh - con gái của bà đưa về mai táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen - Kim Liên. Năm 1942, cậu cả Nguyễn Sinh Khiêm cải táng thi hài của Bà tại ngọn núi Động Tranh Thấp trong dãy Đại Huệ. Năm 1984, để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với người đã có công sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (cũ) và lực lượng vũ trang Quân khu 4 thay mặt cho đồng bào và chiến sỹ cả nước đã xây dựng khu mộ của Bà đàng hoàng, khang trang và đẹp đẽ trên núi Động Tranh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Từ chân núi Động Tranh, lối lên phần mộ Bà nằm ở bên trái phần mộ có 269 bậc (con số 69 là năm Bác Hồ mất - 1969), lối xuống bên phải phần mộ có 242 bậc (con số 42 là năm cậu Khiêm; đưa hài cốt mẹ về đây - 1942). Trước phần mộ xuống sân bia 33 bậc, con số 33 là tuổi đời của Bà. Phía trên mộ là dàn hoa cách điệu hình khung cửi - công cụ lao động đã gắn bó với suốt cả cuộc đời Bà. Hai cụm cây hoa Giấy che mát phần mộ Bà được lấy giống từ Huế - nơi bà mất và khu lăng mộ của ông Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp. Trên nền sân thượng hình bán nguyệt trước mộ, có dựng tấm bia lớn tạc tiểu sử và công lao của Bà Hoàng Thị Loan bằng đá đen. Từ ngày khánh thành (16/5/1985) đến nay đã có rất đông đảo đồng bào và bạn bè quốc tế về đây để hiểu thêm về cuộc đời tần tảo, thương yêu chồng con hết mực, giàu đức hy sinh cao cả của bà Hoàng Thị Loan, thành kính thắp nén tâm hương tưởng nhớ, tri ân công ơn trời biển của người mẹ vĩ đại đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con anh hùng của dân tộc Việt Nam, người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. Nơi đây trở thành địa chỉ đỏ trong giáo dục truyền thống, nơi hội tụ tình cảm của đồng bào cả nước.

Tình thương và nỗi nhớ sâu đậm về mẹ kính yêu vẫn luôn thường trực trong trái tim Hồ Chủ tịch. Ngày còn bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước, tuy cuộc sống muôn vàn khó khăn, gian khổ nhưng Bác vẫn không quên ngày giỗ của mẹ. Trong cuốn sách “Hoa râm bụt” có câu chuyện vào năm 1921, Bác bùi ngùi chia sẻ với người bạn Đào Nhật Vinh: “Ngày giỗ mẹ anh. Hai mươi năm về trước cũng vào ngày chủ nhật, mồng 10-2-1901, là ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý mẹ anh qua đời!... Bấy giờ nhà ở trong ngõ Đông Ba, thành nội, kinh đô Huế, cha cùng anh cả đi công tác tận ngoài tỉnh Thanh chưa về… Từ ngày đi xa Tổ quốc, lần này ngày giỗ mẹ chẵn hai mươi năm anh mới bày biện một chút lễ bạc lòng thành cúng mẹ, còn hàng năm anh chỉ là “tâm hương tưởng niệm”…3

Sau hàng chục năm xa quê, ngày trở lại, Người vẫn không quên lối đi nhỏ vào nhà ngày xưa, không quên chiếc rương gỗ nhỏ - của hồi môn ít ỏi của mẹ, khung cửi của mẹ, chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha… “Quê hương nghĩa trọng tình cao/Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”.

Từ khi chào đời, Bác đã được nhận nguồn sống từ dòng sữa mẹ, trong lời ru, câu ca, điệu hò và chập chững những bước đi đầu tiên được mẹ ân cần dìu dắt. Bác Hồ đã ảnh hưởng từ người mẹ nền văn hóa dân gian mang đậm bản sắc dân tộc. Lớn lên chứng kiến nỗi vất vả, tảo tần lao động để lo toan nguồn sống gia đình do tay mẹ vun đắp, Bác thấu hiểu những khó khăn, vất vả của mẹ, của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Chính vì vậy, trong hành trình tìm đường cứu nước, Bác Hồ là người đề xướng và tiến hành cuộc cách mạng về giải phóng phụ nữ, đưa thân phận người phụ nữ Việt Nam từ cảnh lầm than, khổ cực, bị khinh miệt và đối xử thậm tệ trở thành người công dân có đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ, vai trò xã hội ngang hàng với nam giới.

Cuộc đời bà Hoàng Thị Loan là tấm gương sáng về phẩm chất giản dị, khiêm tốn, đức hy sinh to lớn, lòng nhân ái bao dung. Nếp sống giản dị, thanh cao, yêu lao động được phản ánh rất rõ trong trong cuộc đời của các con bà sau này và nổi bật nhất là ở Bác Hồ kính yêu. Các thế hệ người Việt Nam sẽ mãi mãi biết ơn người mẹ vĩ đại Hoàng Thị Loan - người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng cho dân tộc Việt Nam những người con yêu nước, đặc biệt là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh.  

Kỷ niệm 120 năm Ngày mất của bà Hoàng Thị Loan (1901 - 2021) là dịp để mọi người dân Việt Nam thể hiện lòng tri ân và biết ơn sâu sắc đối với thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam; quyết tâm phấn đấu học tập, rèn luyện và lao động để trở thành những người con có ích cho xã hội; cùng đoàn kết xây dựng nước Việt Nam hùng cường./.

Thu Hiền

-----------

1, 3. Sơn Tùng, Hoa râm bụt, Nxb. Thông tấn, H.2007, tr.84-85; tr.87-88.
2. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương, Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2007, tr.104-105.

Bài viết khác: