Chiến tranh đã qua đi, thời gian và lịch sử đã ghi lại những năm tháng hào hùng, oanh liệt của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Các thế hệ người Việt Nam đã in sâu trong tâm thức của mình sự hy sinh của những con người anh hùng, kiên trung, họ không tiếc máu xương và đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Tiêu biểu là sự hy sinh khi đang làm nhiệm vụ của 10 cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc. Và chính nơi đây, tại Ngã ba Đồng Lộc - địa danh đã trở thành huyền thoại và linh thiêng, các chị Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Võ Thị Hà, Nguyễn Thị Nhỏ, Hà Thị Xanh, Trần Thị Rạng, Nguyễn Thị Xuân, Võ Thị Hợi, Trần Thị Hường, Dương Thị Xuân đang yên nghỉ -  những cái tên đã trở nên quen thuộc, thân thương và ấm áp trong tim hàng triệu người dân Việt Nam.

10 co gai nga ba Dong Loc
10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc (Ảnh internet)

 

phan mo 10 co gai nga ba Dong Loc

Nơi yên nghỉ của 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc anh hùng

 1. Chị Nguyễn Thị Xuân

Chị Nguyễn Thị Xuân sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố chị là đảng viên trong thời kỳ 1930 - 1931. Tuổi thơ của Xuân gắn liền với hình ảnh ngôi nhà nhỏ 3 gian, cái bếp con con và mảnh sân vuông vắn trước thềm.

 Có chừng ấy thôi mà những ngày tháng ở thanh niên xung phong, Xuân nhớ đến phát khóc lên được. Xuân nhớ cây mít đầu ngõ múi ngọt như đường phèn. Bây giờ đang mùa quả chín, cây hồng ít hạt quả sai trĩu cành.Trước cửa nhà Xuân còn có cây cam giấy từ thời bao giờ cũng có quả dành cho Xuân mỗi buổi Xuân về. Buồng cau chi chít quả như còn đợi Xuân về hái cho mẹ. Xuân sẽ ngồi dưới bậc thềm, ngả lưng vào mẹ cho mẹ rẽ tóc như ngày còn bé. Mẹ nhìn Xuân lặng lẽ xoa tay lên đôi gò má có lúm đồng tiền của Xuân, Xuân nũng nịu áp mặt vào đầu gối mẹ cười.

Nguyen thi Xuan
Chị Nguyễn Thị Xuân

Năm 1967, học xong lớp 7, Xuân cùng nhiều chị em khác trong toàn huyện lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của tuổi trẻ.

Xuân quen anh Vĩnh trên một bãi bom nổ chậm. Hôm ấy, trên đường từ Vĩnh Lộc về đơn vị. Xuân gặp máy bay đánh bất ngờ. Trong lúc chạy vào hầm trú ẩn, Xuân đánh rơi cái túi xách nhỏ, trong đó có nhiều thứ, tìm không thấy đâu cả. “ Có lẽ đất đá vùi lấp đi rồi” - Xuân ngơ ngẩn muốn khóc. Anh Vĩnh đến -  Anh đội mũ sắt, quân phục bạc màu. Câu đầu tiên anh nói với Xuân là: “Còn bao nhiêu bom nổ chậm, sao o lại vào đây ?”. Xuân nói vắn tắt việc mất cái túi, ròi dè dặt:

- Trong túi em để thẻ đoàn viên, không thể đánh mất thẻ  đoàn được anh ạ!

- Nó bị văng ra xa, nắp túi vẫn còn, nhưng o thử xem có rơi mất chi không?

- Em cảm ơn anh!

Xuân đi cùng anh trong sự im lặng. Thỉnh thoảng Xuân nhìn sang anh. Dáng anh cao lớn, chắc đậm. Tự nhiên Xuân thấy tin anh ấy. Xuân hỏi tên và quê quán anh. Thế là câu chuyện bắt đầu từ đó.

 Đơn vị bộ đội công binh phá bom của anh Vĩnh phối hợp với C2 bảo đảm giao thông gần một năm. La Khê - Địa Lợi, Cầu Ác, Cầu Cháy...biết bao nhiêu kỉ niệm. Anh Vĩnh là một đảng viên, một Tiểu đội phó dũng cảm và kiên quyết. Xuân càng quý và tin anh. Ngày hôm sau anh Vĩnh lên đường  đến trận địa mới. Rồi thư anh về, những lá thư viết vội giữa nhiều trận đánh. Những lá thư không được phẳng phiu và có nhiều nếp gấp, như có cả mùi bom đạn hăng nồng. Càng xa anh, Xuân càng yêu càng nhớ và một lòng chờ đợi. Xuân tâm sự với bạn bè: “Nhiều đêm nằm mơ em thấy anh Vĩnh về thăm. Bẵng đi một thời gian không có thư anh về, em đã lo. Em nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Nhưng em vẫn đợi...”. Sau này Xuân mới biết anh Vĩnh nhiều lần bị thương...

Mối tình đẹp vừa chớm nở thì một ngày tháng 7, Xuân cùng đồng đội vĩnh viễn ra đi.

2. Chị Võ Thị Hà

Vo Thi Ha

Chị Võ Thị Hà

Sinh ra ở thị trấn Đức Thọ, Hà vốn là cô gái không quen lao động nặng. Cha Hà - ông Võ Trọng Lạc quê gốc ở thị trấn Đức Thọ gặp bà Trần Thị Khuyên quê Bến Thuỷ - Vinh. Hai người cưới nhau và sinh được 5 người con. Hà là con thứ ba.

Khi Hà sinh ra thì đã có dòng sông La mải miết chảy xuôi về biển cả. Sông La cũng hiền hoà như người con gái dịu dàng, xinh đẹp, nhiều mộng mơ. Thuyền bè đi lại tấp nập. Những cánh buồm xa, cánh buồm gần, những chiếc ca nô ngược lên Linh Cảm hoặc xuôi về Vinh.

 Chưa đầy 17 tuổi Hà đã gác lại những ước vọng về con đường học hành để lên đường vào thanh niên xung phong, đến với Ngã ba Đồng Lộc, nơi “túi bom” khốc liệt. Mẹ Hà chuẩn bị đủ thứ cho Hà đi và dặn: “Con làm sao cho bằng chị, bằng em”. Có hôm Hà về thăm nhà, ăn vội ăn vàng để đi kẻo chậm. Lúc nào về Hà cũng mang theo một vài quyển truyện để đọc: “Không có sách, ngoài giờ ra trận địa con buồn lắm mẹ ạ”. Mẹ Hà hiểu đứa con gái thuỳ mị, đa cảm, có phần “tiểu tư sản” của mình, chưa từng lăn lộn với thực tế của cuộc sống, vẫn còn non dại so với chị em trong Tiểu đội nên tìm mọi cách để động viên con. Sau mấy tháng ở tập thể, thấy con khoẻ mạnh, rắn rỏi hơn, bà rất mừng.

Lần cuối cùng Hà về thăm nhà, mẹ Hà có ý tìm đàn gà nhưng không thấy đâu cả. Biết mẹ tìm gà để làm thịt, Hà yên lặng, tủm tỉm cười quay đi “mẹ tìm chi đó?”. Mấy con gà nỏ biết đi mô, hay lại mất rồi”, “mất sao được, con vừa thấy chúng ở sân mà”. Mẹ Hà yên tâm, 5 mẹ con quây quần bên nhau, ăn rất ngon lành. Các em tíu tít nghe chuyện, chuyện Khe Sanh, chuyện Đồng Lộc. Sau đó mẹ Hà gửi mấy con gà con đến Đồng Lộc để chị em nuôi. Nó càng sinh sôi nảy nở. Rồi có lần Hà đem về nhà một con gà mái. Một hôm tự nhiên nó vỗ cánh gáy như gà trống. Mẹ của Hà bảo với em “thế nào chị Hà cũng có chuyện rồi”. Quả thật như vậy - 2 ngày sau nghe tin Hà hy sinh.

Những ngày ở Tiểu đội, vì Hà ít tuổi nhất nên bao giờ cũng được chị Tần, chị Cúc, chị Nhỏ coi như em út. Việc nặng các chị giành lấy, không cho Hà làm. Chị Tần hay vuốt tóc, tâm tình, động viên Hà những giây phút nhớ nhà, nhớ mẹ. Hà hay nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng ngồi một mình trầm tư, có khi thơ thẩn một mình, có khi lại cặm cụi ghi nhật ký 17 mùa trăng, Hà thanh thản ra đi khi chưa hề vướng một chút tơ lòng.

“Chén rượu trắng chắc em không biết uống

Khói hương thơm bay hết cả lên trời

Giọt lệ anh rơi vào lòng đất

Có ấm chỗ em nằm? Hà ơi!

Mười chị em ngủ hai tám năm trời

Ngàn thông xanh như tóc em mười bảy

Cụm sả ai trồng thơm trong nắng cháy

Thay hương bồ kết bạn anh mong

Tiểu đội đã dàn hai hàng ngang ngoảnh mặt xuống đường

Hố bom Mỹ chắn ngang sâu xoáy ruột

Chị Tần thương em không cho em đứng trước

Lúc hy sinh, Hà ơi có nguyên lành?

Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm

Hoa cỏ may níu dày hơn một chút

Những hạt ngâu màu buồn không chịu được

Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì…

Hãy yên lòng bên các chị, ngủ đi

Đừng sợ tiếng quạ kêu

Đừng sợ bom lại nổ

Màu hoa đỏ cành bông trang bên mộ

Nhắc anh không quên được một thời

Ngã ba này, những mất mát - Hà ơi

                                                     Bùi Quang Thanh - tháng 8 năm 1996

3. Chị Trần Thị Rạng

Sinh ra tại xóm chài Thọ Thuỷ - Đức Vĩnh - Đức Thọ, từ nhỏ cô bé Rạng đã tỏ ra can đảm, ít nói song tinh nghịch. Thời thơ ấu Rạng theo cha mẹ làm nghề chèo lái trên sông La.

Rạng lớn lên lúc bom đạn giặc Mỹ đánh phá ác liệt ở bến đò Hào - quê hương. Chứng kiến cảnh đau thương của xóm và nhân dân. Rạng quyết định rời cuộc sống sông nước lên bờ sinh hoạt với đoàn thanh niên, tham gia phục vụ chiến đấu tại huyện nhà.

Tran Thi Rang
Chị Trần Thị Rạng

Ngày 03-11-1967, chị vào thanh niên xung phong. Đơn xin tình nguyện thì nhiều nhưng số trúng vào thanh niên xung phong thì ít. Rạng may mắn được ở trong số những người trúng tuyển. Rạng mừng lắm, về thuyền soạn sửa đồ đạc và từ giã gia đình. Ngày Rạng ra đi bố mẹ lên bờ tiễn và theo dõi bóng con. Rạng dong dỏng cao, nước da trắng hồng như bao nhiêu ngườì con gái từng uống nước sông La. 17 tuổi, chân trời mơ ước mở ra trước mắt Rạng. Được sống và chiến đấu ở nơi chiến trường khốc liệt đối với Rạng coi như là đã được thực hiện hoài bão của tuổi trẻ.

Đồng đội thanh niên xung phòng đều là những người cùng trang lứa. Cả Tiểu đội A4 của Rạng chỉ có chị Tần, chị Cúc, chị Nguyễn Thị Xuân và chị Thao là đã từng ở thanh niên xung phong 3 năm còn Rạng và 12 người nữa đều là “lính nhiệm kỳ II” vào thanh niên xung phong với bao điều bỡ ngỡ. Vốn là con nhà chèo lái, tay cầm cào, cuốc, thuổng không quen, trình độ văn hoá còn thấp song với một quyết tâm sắt đá “vươn lên cho bằng chị, bằng em”, Rạng đã nhiệt tình lao động và say mê học tập văn hoá. Ngoài giờ ra trận địa, Rạng cùng chị em làm toán, làm văn, tập hát, lúc nghỉ giải lao lại tìm cách trêu đùa Đại đội trưởng và mấy anh lái xe ủi. Cuộc sống tuy gian khổ, ác liệt nhưng vui tươi, sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan. Rạng ngày càng rắn rỏi, bạo dạn. Mặc dù lăn lộn với nắng mưa, bom đạn nhưng vẻ xinh tươi trên khuôn mặt Rạng vẫn không bao giờ tắt. 18 mùa Xuân, cuộc đời đang như ánh ban mai, vậy mà Rạng đã phải vĩnh viễn giã từ đồng chí, đồng đội, yên nghỉ ngàn thu trên núi đồi quê hương.

4. Chị Trần Thị Hường

Chị Trần Thị Hường là con của một liệt sỹ trong kháng chiến chống Pháp. Cha chị là Vệ quốc quân hy sinh năm 1953 ở mặt trận. Khi ông hy sinh, Hường mới 4 tuổi, mẹ Hường đang có mang em Lý. Năm em Lý lên 2 và Hường tròn 5 tuổi, mẹ đi lấy chồng. Hai chị em ở với bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đông Quế, thị xã Hà Tĩnh.

Tran Thi Huong
Chị Trần Thị Hường

Tuy sống thiếu tình cảm bố mẹ nhưng được bà và cậu mợ thương yêu hết mực nên tính tình của Hường vẫn hồn nhiên, vui vẻ. Chị có giọng hát hay và lại hay hát. Hường được mệnh danh là “chim sơn ca” của Tiểu đội và của cả C522. Mái tóc Hường đen dài và óng ả. Với mái tóc và giọng hát trời phú ấy, Hường đã được nhiều chàng trai cảm mến. Sau những giờ lao động mệt nhọc ở ngoài trận địa. Hường và anh chị em lại quây quần hát múa, diễn kịch. Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” đã lan rộng khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam. Ở C552 trong các buổi tập văn nghệ, Hường bao giờ cũng là hạt nhân chính. Những bài hát “Cô gái mở đường”, “Đường ta đi dài theo đất nước”, “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”...đã được Hường và anh chị em hát say sưa. C522 còn diễn kịch hát dân ca, vở “ Con đường và dải lụa”. Hường không chỉ hát hay mà còn là cô gái đằm thắm và dịu dàng, thích quan tâm đến mọi người theo cách riêng của mình. Cuộc chiến ngày càng ác liệt song không làm nụ cười và tiếng hát tắt trên đôi môi Hường. Chỉ tiếc rằng Hường không còn chờ đến ngày toàn thắng để cùng đồng đội hát bài ca khải hoàn. Hường đã vĩnh viễn ra đi giữa mùa hạ thứ 21 của đời mình.

5. Chị Hà Thị Xanh

Sinh ra ở vùng quê Đức Hoà - Đức Thọ- Hà Tĩnh, Xanh vốn là cô gái hiền lành, ít nói nhưng làm việc thì rất chăm. Xanh đậm người, khoẻ mạnh, làm việc gì cũng xốc vác, hay nhận việc khó về mình.

Ha Thi Xanh

Chị Hà Thị Xanh

Môi trường chiến đấu, lao động, học tập đã khiến cho Xanh cùng chị em trong Tiểu đội gắn bó với nhau như ruột thịt. Một lần được nghỉ phép, Xanh rủ Hà về nhà mình chơi. Cả 2 đến Đức Hoà vào lúc quá trưa. Đang đi trên đường làng rợp bóng, Hà chợ nảy ra ý tinh nghịch: “Thế này nhé, lát nữa mình vào trước nói chuyện với mẹ chút việc này. Khi nào nghe mình gọi, Xanh hãy ra được không?”. Xanh mỉm cười gật đầu. Thật lòng Xanh muốn chạy về nhà ngay. Hà đẩy Xanh vào bụi chuối, xốc ba lô đi vào nhà. Xanh hồi hộp nhìn qua kẽ lá, thấy mẹ đang ngồi khâu ở đầu hè. Mấy đứa em đang quây quần xung quanh. Thấy Hà, các em reo ầm lên:

- Chị Xanh về mẹ ơi!

 Mẹ Xanh ngẩng lên hơi luống cuống nhưng khi thấy Hà, bà bình tĩnh lại. Các em Xanh bị tẽn tò, đứng im như tượng nhìn Hà. Hà bỏ mũ ra và tươi cười nói:

- Con ở đơn vị Xanh được về thăm bọ mạ một lát.

- Mần răng con Xanh không về con?

Hà mỉm cười ngồi xuống ghế: - Lẽ ra Xanh cũng về nhưng ngại mẹ ạ. Mẹ Xanh chưa hiểu: “Nó ngại chi con?”. Chờ mẹ Xanh rót nước chè ra bát, Hà tủm tỉm: “Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước chúng con thực hiện phong trào “ba khoan”, nghĩa là khoan lấy chồng”. Mẹ Xanh sốt ruột:

- Việc nớ can chi mà con Xanh không về?

- Con sẽ co cách gọi Xanh về ngay!

- Thật không?

- Dạ thật ạ!

Thấy các em tò mò theo dõi câu chuyện, Hà đứng dậy tới gần chiếc cột ngoài hiên tưởng tượng đó là điện thoại. Hà làm động tác quay máy, nhấc ống nghe lên nói như thật: “A lô! Tổng đài đâu? Cho tôi gặp tổng đội 55. Năm lam đấy phải không? Cho tôi gặp C552.C2 đấy à? Hà đây? Sao lâu thế? Đang tắm à? Này, thu xếp ba lô về nhà ngay. Mẹ chờ đây! Sao ngại à? Mẹ đồng ý là không nhắc đến chuyện “vớ vẩn” ấy nữa đâu. Không có ô tô à? Thế thì đi máy bay lên thẳng vậy. Chìa khoá mình bỏ trong ống đũa ấy!”

Cả nhà cười ầm lên. Hà vẫn tiếp tục đùa. “Sao? Máy bay hết xăng à? Lấy vài bát cơm nguội cho nó ăn tạm vậy. Ừ! Về ngay nhé, mình ra sân đón Xanh đây!”. Hà ra sân nhìn lên trời, các em ùa ra theo.

- Máy bay lên thẳng của chị Xanh kia rồi. Nó hạ cánh xuống rồi. Chị Xanh về đến nhà rồi. Các em nhao lên.

- Xanh ơi! Vào nhà đi!

Xanh ra khỏi bụi chuối, tươi cười bước lên gò đất nhà mình.

- Chị Xanh về thật mẹ ơi!

6. Chị Võ Thị Hợi

Sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở xã Thiên Lộc - Can Lộc, nơi có dãy Hồng Lĩnh quanh năm mây vờn và ngôi chùa Hương cổ kính nằm ẩn mình trên đỉnh núi, từ nhỏ, cô bé Hợi đã cảm thấy yêu quê hương, yêu ruộng đồng, yêu những người dân quê mộc mạc, “một nắng hai sương”.

Hợi là con thứ 5 trong gia đình. Để giúp bố mẹ, hàng ngày Hợi dắt bò đi ăn trên những bãi cỏ gần chân núi cùng đám bạn bè trong xóm. Mỗi lần thôn xóm có lễ hội gì, nhất là những ngày đón Tết, Hợi thường cùng các bạn đội viên tập văn nghệ, múa hát suốt đem. Hợi và đám bạn bè hay hát những bài hát về Đảng, về Đoàn thanh niên, về Bác Hồ kính yêu.

Vo Thi Hoi
Chị Võ Thị Hợi

Năm 1965, học xong lớp 7, Hợi xung phong đi “Ba sẵn sàng”. Tính tình Hợi hiền lành, tác phong nhanh nhẹn, tóc dài, nước da ngăm đen. sống trong tập thể thanh niên xung phong, Hợi nhanh chóng hoà nhập, chia ngọt sẻ bùi với chị em, nhất là chị em trong tiểu đội A4 nơi tuyến lửa. Thi thoảng, Hợi mới có dịp về thăm nhà, thăm cha mẹ: “Bom đạn dội xuống ghê gớm lắm mẹ ạ! Tiếng bom nổ, tiếng máy bay gầm xé suốt đêm ngày, đất đá bụi tung mù mịt. Nhưng tất cả bọn con đều không sợ. Cứ đợi dứt đợt bom là chúng con ra đường ngay, để xe khỏi bị tắc trên đường vào Nam mẹ ạ!”.

Bà Em - mẹ Hợi vừa thương con vừa cảm phục nghị lực đứa con gái trông bề ngoài hết sức hiền lành. Không cần nghe con kể, bà cũng hình dung đựơc cuộc sống của con và đồng đội ở nơi đó. Bà lựa lời khuyên con giữ gìn sức khoẻ để bình yên trở về trong ngày thắng Mỹ. Bà đâu có ngờ đứa con gái bé bỏng ngoan hiền, khúc ruột thứ 5 của bà đã vĩnh viễn không bao giờ trở về, góp một giọt máu đỏ tươi để tô thắm lá cờ vẻ vang của dân tộc.

7. Chị Dương Thị Xuân

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê Đức Tân - Đức Thọ, trong một gia đình đông con, chị Xuân sớm ý thức được trách nhiệm người chị cả của mình. Là con gái đầu lòng nên Xuân khá vất vả. Bố làm thợ mộc, mẹ bận bịu với nghề bán hến ở chợ. Nhiều khi Xuân phải nghỉ học để trông nhà, trông em. Xuân hiền hậu, nhu mì, mẹ mắng không bao giờ cãi lại.

Duong Thi Xuan

Chị Dương Thị Xuân

Học hết lớp 7, Xuân xin cha mẹ cho đi làm trên nhà máy đường Sông Lam gần Rú Thành. Sống cuộc đời công nhân, Xuân phổng phao và đẹp hẳn lên. Xuân chăm làm, chịu khó học hành và công tác nên được nhà máy thưởng nhiều lần. Năm 1965 - 1966, Xuân được thưởng chiếc áo lụa hoa rất đẹp, thỉnh thoảng mới diện đôi chút. Sau đó nhà máy đường Sông Lam bị giặc Mỹ tàn phá, công nhân phải tạm chuyển đi làm việc khác. Xuân đi thanh niên xung phong. Ra đi, Xuân vẫn nhớ ngọn núi Thành cao chót vót bên nhà máy, nhớ Ngã ba Sông Lam và Sông La, nhớ khu nhà tập thể bên sườn núi đất.

Ông Quý - bố Xuân rất chiều con. Những lúc rảnh rỗi trước đây, ông thường xuống đơn vị thăm con. Nhiều bạn của Xuân thầm ước ao có một người cha như thế, nhất là Nhỏ, Cúc và Hường.

 Trước khi đi thanh niên xung phong, Xuân có quen anh Tân người cùng xã. Gia đình anh rất quý Xuân nhưng anh Tân chưa dám ngỏ lời. Xuân mến anh Tân nhưng chưa muốn vấn vương chuyện gia đình, chuyện chồng con. Xuân hẹn anh khi nào thống nhất đất nước thì hãy liệu. Anh Tân nghĩ vậy là đúng. Trước khi Xuân lên đường, anh trao cho xuân một quyển Điều lệ Đảng mà anh vẫn dùng. Anh nói với Xuân:

- Anh cũng đi bộ đội. Sau này trở về chúng ta sẽ là hạnh phúc riêng. Anh lấy sợi ni lông xanh, đỏ buộc vào cổ tay Xuân rồi nói:

- Màu đỏ là của anh, màu xanh lam này là của em. Khi nào nhớ đến anh, em hãy nhìn chiếc vòng này.

Cũng như mối tình Tần - Hồng, Xuân và anh Tân đã không thực hiện được lời hẹn ước vì đất nước còn có giặc, chuyện riêng tư đành gác lại. Và ngày toàn thắng thì đã đến nhưng Xuân, chị Tần và 8 chị em trong A4 cùng bao nữ thanh niên xung phong khác đã mãi mãi không trở về, gửi lại tuổi trẻ và tình yêu trên những tuyến đường.

8. Chị Nguyễn Thị Nhỏ

Cùng sinh năm 1944 như chị Tần, chị Cúc, Nhỏ có một hoàn cảnh tương tự Cúc. Bố mẹ mất sớm, nhà chỉ có 2 chị em gái: Chị Miên và Nhỏ. Chị Miên thay bố mẹ nuôi Nhỏ từ tấm bé. Gọi Nhỏ vì bố mẹ mất sớm, cơm không có ăn, áo không có mặc, bệnh tật hành hạ, càng ngày cô bé càng còi cọc, không lớn được chút nào. Rồi đến tuổi, chị Miên đi lấy chồng, nhưng chị không về quê chồng mà ở lại cùng em. Chồng chị là bộ đội thỉnh thoảng ghé thăm nhà. Sau khi chị sinh cháu trai đầu lòng, chồng chị hy sinh. Chị đành ở vậy nuôi em và nuôi con.

Nguyen Thị Nho
Chị Nguyễn Thị Nhỏ

 Thế rồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ngày một ác liệt. Nhỏ xin chị vào thanh niên xung phong. Chị sợ em còn bé dại thơ ngây, chưa gánh vác nổi việc nước. Nhưng chị Miên vẫn để Nhỏ đi. Chị cho em bộ quần áo lành lặn nhất, gói cho em một nắm cơm, rồi bế con tiễn Nhỏ lên đường. Nhỏ ra đi chỉ với bộ quần áo và nắm cơm của chị. 2 chị em quyến luyến bịn rịn khi chia tay. Nhỏ ôm chầm lấy cháu. Thằng bé cũng bám chặt lấy dì. Chị Miên dặn: “Em gắng làm việc cho bằng chị bằng em, phải cẩn thận nơi mũi tên hòn đạn. Nếu em làm sao thì chị chỉ còn một mình em thôi”. Bà con làng xóm ra tiễn đứng nhìn theo cho đến khi bóng cô khuất hẳn.

 Sau một thời gian ở thanh niên xung phong, Nhỏ về thảm quê. Bộ quần áo thanh niên xung phong cô mặc còn nguyên nếp gấp khiến cô chững chạc hẳn lên. Chỉ một thời gian ngắn ở thanh niên xung phong, Nhỏ phổng phao lên trông thấy. Khi vào thanh niên xung phong, Nhỏ mới thật sự bước vào tuổi dậy thì. Trên đôi má mới vương sắc máu hồng. Nhỏ ngày một xinh tươi hơn, thường lấy gương của Cúc soi trộm. Nhỏ chăm làm, xung phong gương mẫu hơn các em nên được chị Lê Thị Hồng kèm cặp để học thêm. Càng lăn lộn với thực tế của cuộc chiến đấu, Nhỏ càng thấm thía ý nghĩa tuổi thanh xuân và mong muốn đóng góp được nhiều sức lực hơn nữa để Nam Bắc sum họp một nhà.

 Nhỏ ra đi vào lúc 24 tuổi, không kịp giã biệt người chị và đứa cháu nhỏ thân yêu, để lại tiếc thương cho biết bao người.

9. Chị Võ Thị Tần

vothitan

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo đói nhưng giàu lòng yêu nước, lại được sự giáo dục của nhà trường nên chị Võ Thị Tần đã sớm hình thành lý tưởng cách mạng, lối sống giản dị, tiết kiệm, chịu đựng gian khổ để học tập.

Năm 1963 - 1964, chị là Phó Bí thư Chi đoàn địa phương. Tần đã góp sức cùng bà con xóm làng xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp, thúc đẩy phong trào Hợp tác xã lớn mạnh. Năm 1965, Tần đã cùng nhiều chị em trong toàn huyện xung phong vào lực lượng thanh niên xung phong trực tiếp lao động, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

Ngày mới nhập ngũ, Tần biên chế vào C552 - P18 Hà Tĩnh bảo vệ thông suốt các tuyến đường ra mặt trận. Mồng 2-5-1965, Tần cùng đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thông đường và bốc xếp hàng ở bến phà Địa Lợi thuộc đường 15A trên đất Hương Khê. Tháng 11năm 1965 đến tháng 6 năm 1966, Tần được điều về làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trên đường 15A đoạn từ cầu Tùng Cốc đến Đức Thọ. Do có nhiều thành tích trong công tác và anh dũng trong chiến đấu, đạo đức tư cách tốt nên Tần đã được Chi bộ C552 đề nghị Đảng uỷ cấp trên chuẩn y kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào dịp kỷ niệm Đảng ta 37 tuổi (3-2-1967). Ban chỉ huy đã quyết định giao cho Tần nhiệm vụ Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4 - C552.

Tháng 4 năm 1967 đến tháng 6 năm 1967, Tần cùng đơn vị được điều về công tác bảo vệ đường 15A ở Đồng Lộc. Trong quá trình từ ngày nhập ngũ đến tháng 7 năm 1968, chị đã phấn đấu lập nhiều thành tích, Chỉ huy Tiểu đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tiểu đội do chị phụ trách luôn xứng đáng là lực lượng chủ công, con chim đầu đàn của đơn vị.

 Trong cuộc sống hàng ngày, Tần là cô gái vui vẻ, cởi mở, tính nết thẳng thắn, vô tư yêu đời song rất dứt khoát, rành mạch. Cuộc đời chị vì thế có phần đơn giản, hạnh phúc hơn chị Cúc. Bố mẹ cưng con gái lớn. Ông Cung - bố chị bao giờ cũng coi Tần như còn nhỏ. Mẹ chị càng yêu con gái hơn ai hết. Mẹ không muốn con gái đi lấy chồng xa. Mẹ đồng ý gả chị cho một anh trai làng, người mà chị yêu. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu chống Mỹ còn đang ác liệt. Anh Hồng đã vào bộ đội, lên đường vào chiến trường miền Nam. Còn Tần sau đó đi thanh niên xung phong. Họ hẹn nhau ngày toàn thắng sẽ nên duyên vợ chồng. Sau ngày anh Hồng xuất ngũ trở về địa phương thì chị Tần đã vĩnh viễn ra đi. Đau đớn và xót thương người yêu, anh đã đi lại săn sóc bố mẹ già của chị. Mãi sau này khi đã nguôi ngoai, anh mới xây dựng gia đình với người con gái khác. Thật cảm động vì anh chị đã rước ảnh chị Tần về thờ trong ngôi nhà của mình và vẫn tiếp tục đi về với bố mẹ chị Tần như con cái trong gia đình.

Ngày 19-7-1968, trước lúc hy sinh 5 ngày, chị Tần đã viết thư về cho mẹ. Bức thư tràn đày tình cảm yêu thương nhớ mong mẹ và cũng tràn đầy tinh thần yêu nước, căm thù giặc, quyết tâm sắt đá đánh kẻ thù và tinh thần lạc quan cách mạng phơi phới.

10. Chị Hồ Thị Cúc

Cúc cất tiếng khóc chào đời trên mảnh đất Nương Bao - xã Sơn Bằng - Hương Sơn, bên con sông Ngàn Phố trong xanh. Cúc vừa đầy một tuổi, nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp mất người cha, bà nội Cúc và bao người khác trong làng. Ông nội Cúc đưa 2 mẹ con Cúc về nhà rau cháo lần hồi đợi ngày lúa chín ...Đến năm Cúc 4 tuổi, mẹ Cúc đi bước nữa.

Ho Thi Cuc

Chị Hồ Thị Cúc

Từ đây Cúc sống trong sự đùm bọc của ông nội và o Loan. Chẳng bao lâu, vào một ngày tháng Chạp, ông nội qua đời, một  mình o Loan nuôi cháu, đến năm sau chú Dũng đi bộ đội về và cưới vợ. Từ đây Cúc sống với chú mự và o Loan. Bà Trinh - mẹ Cúc lấy chồng ở Sơn Bằng thỉnh thoảng về thăm con, nhưng chẳng có gì để nuôi Cúc. Thời gian này Cúc còi cọc, mặt choắt lại, đôi mắt luôn nhìn xuống, lâu dần thành thói quen. Tóc Cúc vàng hoe, cụt cỡn như một túm đuôi lông bò. Quanh năm Cúc mặc chiếc quần lửng với tấm áo vá. Cúc đi chăn bò, cắt cỏ, bế em và làm bao việc không tên khác ở trong nhà. Cúc làm chậm nhưng cần cù, cẩn thận và thật thà nên thường gọi là “Cúc mục”. 

Hồi Cúc lên 8, một hôm đun nồi cám lợn xong, Cúc lúi húi quét dọn bếp. Mự vào bưng nồi cám lợn ra, chẳng may trượt chân làm đổ cả nồi cám lên lưng Cúc. Cúc bị bỏng nặng, suốt ngày nằm sấp trên chiếc chõng con, lúc tỉnh lúc mê. O Loan hồi ấy ở nhà, thương xót cháu, 3 tháng liền tìm cách chữa cho cháu bằng bài thuốc dân gian. Cuối cùng Cúc đã khỏi. Nhưng vết sẹo sần sùi rất lớn, chạy suốt từ bả vai xuống đến thắt lưng thì không bao giờ xoá được. Cúc giấu tất cả mọi người điều đó.

Năm 1965, Cúc đi thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước. Ba năm sống trong tập thể nam nữ thanh niên, chiến đấu trên mặt đường địch đánh phá, chị đã trưởng thành và không còn là o “Cúc mục “ ngày xưa nữa. Duy chỉ có vết sẹo trên lưng và nỗi đau sâu lắng trong lòng là không thể quên đi được.

Ngày nhập ngũ, chị Cúc đựợc ở với chị Tần. Đôi bạn cùng lứa tuổi, cùng ngày nhập ngũ đã sống với nhau trong niềm thương yêu đồng chí, đồng đội, luôn giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đựơc giao. Trong 3 năm cùng sống, cùng làm việc cả 2 chị đã đạt nhiều thành tích. Vinh dự lớn nhất trong đời, đó là giờ phút thiêng liêng 2 chị được đứng dưới Đảng kỳ và chân dung Hồ Chủ tịch đọc lời tuyên thệ trước lúc vào Đảng 3-2-1967. Sau đó Cúc được giao nhiệm vụ Tiểu đội phó, tiểu đội 4 - C522. Càng vui sướng với niềm vui ấy bao nhiêu, Cúc càng hăng say công tác bấy nhiêu. Ba năm trời trôi qua, Cúc đã cùng Tần chỉ huy Tiểu đội bám trụ chiến đấu, bảo đảm thông suốt đường 15A trên trận địa Ngã ba Đồng Lộc.

Một ngày tháng 7 nắng gắt ở Đồng Lộc, vào lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, trong lúc cùng 11 người trong Tiểu đội (trừ 5 cô đi lấy quân trang quân dụng, 1 người đã hy sinh trước đó) ra mặt đường cách Ngã ba Đồng Lộc về phía Nam khoảng 300 m để san lấp hố bom, sửa chữa đường kết hợp củng cố hầm trú ẩn, Cúc cùng 9 chị em trong Tiểu đội đã hy sinh. Trong Tiểu đội còn có chị Trần Thị Thao, “lính nhiệm kỳ I” vì lý do tập văn nghệ đi sau cùng Tiểu đội 5 nên đã sống sót.

Hôm đó, 10 cô gái ra đến hiện trường đã nhanh chóng triển khai công việc. Kẻ đào, người xúc, hồ hởi làm việc, vừa làm vừa chuyện trò trêu đùa nhau. Bỗng có một tốp máy bay vượt qua trọng điểm. Tất cả chị em nhanh chóng nép mình vào triền đồi, nơi thành hố bom cũ tạo nên một cái rãnh lớn. Tốp đi sau của tiểu đội 5 cũng dừng lại quan sát. Một lúc sau, hết tiếng máy bay cả Tiểu đội chồm dậy để tiếp tục làm việc. Bất ngờ, một trong tốp chiếc máy bay lúc nãy quay lại, thả một loạt bom. Một quả bom rơi trúng vào chỗ của các cô đang làm việc. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung toé, khói bom mù mịt, đen ngòm trùm lên cả đội hình 10 cô.

Tốp thanh niên xung phong Tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét, bộ đội, nhân dân ở gần đó cũng lao ra gọi tên từng người. Đến nơi, chỉ còn thấy hố bom sâu hoắm, một vài chiếc cuốc, xẻng văng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh. Suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, đồng đội đã đào bới, tìm kiếm thi hài các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như đang vừa đi vào giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị vào khu đồi Bãi Dịa với lòng xót thương vô hạn.

Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra. Thương xót người em, người đồng đội có số phận không may mắn, tác giả Yến Thanh (tên thật Nguyễn Thanh Bình - cán bộ phụ trách kỹ thuật ngành Giao thông vận tải) cùng có mặt lúc đó nghẹn ngào viết lên bài thơ: “Cúc ơi”:

Cúc ơi!
Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh
Tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc?
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em,
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi!

                                            25-7-1968

Tuy chưa một lần được về thăm Đồng Lộc, nhưng tôi thực sự cảm thấy xúc động trước những câu chuyện và vần thơ da diết, sâu lắng về 10 nữ liệt sỹ đã hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc năm xưa. Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ ngày các chị yên nghỉ, nhưng tuổi xuân mà các chị hiến dâng cho Tổ quốc vẫn nguyên vẹn tuổi hai mươi. Các chị và hàng triệu con người anh hùng đã hy sinh để mang lại mùa Xuân độc lập, tự do, hòa bình cho đất nước, bởi vậy các thế hệ người Việt Nam ngày nay, đặc biệt là thế hệ trẻ, với tấm lòng đời đời ghi nhớ công lao to lớn của các anh hùng liệt sỹ, phải sống, học tập, cống hiến sức trẻ, trí tuệ xây dựng đất nước sao cho xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh, hưởng ứng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, thực hiện lời dạy của ông cha về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tri ân các anh hùng liệt sỹ, các bác, cô chú thương bệnh binh đã cống hiến tuổi xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Bài viết khác: