Tôi may mắn được gặp Bác Hồ nhiều lần, đó là những giây phút thiêng liêng, đã đi theo tôi suốt những năm tháng từ trung niên cho tới nay, khi đã qua cái tuổi "xưa nay hiếm”. Bác có tấm lòng nhân từ thân ái với cả những người làm bảo vệ và phục vụ như chúng tôi. Bác lại dành tình cảm rất đặc biệt, vừa thân thương, vừa ấm áp, lại rất thiêng liêng cho chúng tôi - những người lính cận vệ.
Bác Hồ đứng giữa hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà tại Việt Bắc cùng với Tiểu đội võ trang bảo vệ phái đoàn Nam Bộ
Xuất thân từ một gia đình rất nghèo ở xã Thành Triệu, huyện Sóc Sải (nay thuộc huyện Châu Thành), tỉnh Bến Tre, tuổi thơ tôi đã trải qua những ngày tháng, cơm không đủ ăn, áo không có để mặc, ngủ chỉ có một chiếc nóp; không được học hành, cách mạng đã đổi đời tôi.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tôi tham gia Ðội Thanh niên Tiền phong. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, chúng đưa quân chiếm tỉnh lỵ Bến Tre, lấn chiếm đóng đồn tại huyện Sóc Sải, tôi bị bắt. Tên chỉ huy nói: “Mày là Việt Minh theo Hồ Chí Minh phải không?”. Tôi nghe mà không biết Hồ Chí Minh là ai. Bọn chúng tra khảo tôi rất dã man, sau đó tiếp tục hỏi: “Mày chỉ ai làm Việt Minh ở địa phương mày, tao thả, nếu mày không chỉ, sẽ bị xử bắn”. Tôi kiên quyết không nói một lời, nên bị chúng trói và bịt mắt đưa ra chợ Sóc Sải để xử bắn. Lúc đó, chợ họp rất đông. Tôi yêu cầu, trước khi bắn, cứ mở trói và không bịt mắt. Không ngờ, chúng đồng ý. Ðợi khi chúng vừa mở trói và mở bịt mắt là tôi liền phóng nhanh vào đám đông người đang họp chợ. Ðịch rượt theo, chúng bắn chỉ thiên tứ tung, may là nhờ bà con chạy tán loạn lên để che chở cho tôi chạy thoát.
Một lần, Ban Tuyên truyền lưu động Khu 8 do đồng chí Bảo Ðịnh Giang làm Giám đốc, đến biểu diễn văn nghệ tại chợ Sóc Sải, tôi đi xem, thấy có một anh thanh niên hát bài ca về Hồ Chí Minh say sưa, lúc đó, tôi mới biết Bác Hồ là vị lãnh tụ kính yêu của đất nước. Từ đó, trong tôi dấy lên niềm yêu quý và ao ước được gặp Bác... Ngày 15-3-1948, đồng chí Trần Văn Trà, Tư lệnh Khu VIII nhắc chúng tôi rèn luyện sức khỏe để sẵn sàng bảo vệ phái đoàn Nam Bộ ra chiến khu Việt Bắc, báo cáo với Trung ương và Bác Hồ về tình hình kháng chiến ở miền Nam. Tôi sung sướng như được nhận phần thưởng.
Tháng 4-1948, Ðoàn đại biểu Nam Bộ gồm 20 người, trong đó có tám đại biểu, 11 bảo vệ, một y sĩ. Ðồng chí Trần Văn Trà làm Trưởng đoàn, đồng chí Trần Bửu Kiếm làm Phó đoàn. Ðoàn rời Ðồng Tháp Mười ngày 15-4-1948, ròng rã mấy tháng trời, đến ngày 5-10-1948, mới tới chiến khu Việt Bắc.
Có thể nói, trong suốt hành trình dài hàng ngàn dặm từ miền Nam ra Việt Bắc, nguồn động viên tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi chính là ước muốn mau được gặp Bác Hồ kính yêu. Chỉ nghĩ đến giây phút đó thôi, chúng tôi đã vơi hết mệt nhọc đường trường.
Và, giây phút chờ đợi ấy đã đến. Gặp được Bác, chúng tôi chạy ùa vào Bác như những đứa con đi xa lâu ngày sà vào ôm người cha kính yêu, đầy thương nhớ, trông chờ, rối rít, nghẹn ngào không nói nên lời. Chúng tôi quấn quýt quanh Bác, xúc động sờ lên bộ bà ba nâu của Bác, thổn thức nắm bàn tay ấm của Bác.
Khi ấy, tóc Bác bạc chưa nhiều. Bác bình dị từ trong cách ăn mặc đến cử chỉ, lời nói. Những cảm xúc của chúng tôi lúc ấy thật khó có thể diễn tả được. Cả tiểu đội vũ trang chúng tôi quây quần quanh Bác, Bác ân cần hỏi thăm từng người về gia cảnh, quê quán, đơn vị, những chiến công lẫn những gian khổ. Bác không chỉ quan tâm chuyện quốc gia đại sự mà còn quan tâm đến tình cảm riêng tư của chúng tôi. Rồi Bác bảo mọi người chụp ảnh với Bác để kỷ niệm.
Lần đó, Bác nói với chúng tôi: Giặc Pháp muốn bám rễ ở Nam Bộ để thôn tính nước ta. Chúng nó hoàn toàn ảo tưởng. Ðồng bào Nam Bộ đã chặn chân chúng. Bác mong các cháu phải tin tưởng mà công tác và chiến đấu cho thắng lợi độc lập. Rồi Bác ân cần nhắc nhở, đại thể: “Thời tiết ở đây thay đổi bất thường, không như thời tiết ở Nam Bộ, các cháu phải giữ gìn sức khỏe để làm nhiệm vụ và học tập những kinh nghiệm tốt nhằm phục vụ đồng bào”. Sau đó, đồng chí Trần Văn Trà phân công người đi làm nhiệm vụ, người đi học.
Khoảng tháng 2-1949, chúng tôi về Nam. Bác dặn: Nhớ báo cáo với đồng bào chiến sĩ rằng, Đoàn đã gặp Bác, Bác vẫn mạnh khỏe. Bác chuyển lời hỏi thăm sức khỏe đến toàn thể đồng bào, chiến sĩ miền Nam, động viên mọi người cố gắng chịu đựng gian khổ để đánh giặc. Bác và Trung ương luôn nhớ đến đồng bào, chiến sĩ. Sau đó, Bác bắt tay từng người một, có người cảm động ôm Bác khóc nức nở.
Tháng 6-1952, anh Ba Lê Duẩn được Bác Hồ gọi ra chiến khu Việt Bắc báo cáo tình hình miền Nam. Tôi lại theo Ðoàn công tác của anh Ba đi bộ dọc dãy Trường Sơn suốt mấy tháng ròng mới ra tới chiến khu Việt Bắc, đến ngày 20-11-1952.
Biết tin, Bác Hồ đến thăm đoàn ngay, Bác bắt tay và ôm hôn anh Ba Lê Duẩn. Tôi vô cùng xúc động khi Bác vẫn nhận ra tôi trong lần gặp trước đây, lúc đi với đoàn anh Trần Văn Trà.
Từ cuối năm 1952, cho đến đầu năm 1954, anh Ba Lê Duẩn làm việc tại Văn phòng Trung ương Ðảng ở chiến khu Việt Bắc. Hàng ngày, anh Ba làm việc với Bác Tôn và anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Ðồng, anh Lê Văn Lương, anh Tố Hữu, anh Võ Nguyên Giáp và một số đồng chí khác. Suốt mấy tháng liền, anh Ba cũng thường xuyên vượt đèo De qua nhà Bác Hồ ở Tân Trào, làm việc.
Cuối năm 1953, anh Ba sang nhà Bác làm việc đến khuya, phải ngủ lại đêm. Khoảng một giờ đêm nghe tiếng máy bay địch, tôi giật mình thức dậy, đã thấy Bác Hồ và anh bảo vệ cầm cái chăn chiên căng ra theo hướng máy bay địch. Tôi bối rối: “Sao Bác không gọi cháu?”. Bác nói: “Ðể cháu ngủ, mai còn làm việc”. Tôi cảm động đến mức không thể nào chợp mắt được, cứ nằm thao thức chờ trời sáng.
Ðầu năm 1954, Bác Hồ gọi anh Ba sang làm việc với Bác và Bộ Chính trị, bàn bạc công việc từ sáng đến gần nửa đêm. Ðã khuya, Bác bảo anh Ba và mọi người ngủ lại, sáng về. Sáng sớm tinh mơ, mọi người vẫn còn ngủ, thì Bác đã thức dậy trước, sau đó, mọi người thức dậy cùng Bác tập thể dục.
Khi chia tay, Bác Hồ ôm hôn anh Ba, rồi các đồng chí ở Bộ Chính trị cũng ôm hôn anh Ba và chúc sức khỏe. Tôi ngạc nhiên về cử chỉ thân mật khác ngày thường này. Tôi đến thưa Bác, Bác bắt tay và dặn tôi: “Cháu nhớ giữ gìn sức khỏe để đi đến nơi về đến chốn”.
Sau này khi anh Ba ra Hà Nội làm việc lâu dài bên Bác và Bộ Chính trị, tôi nhớ khoảng một giờ chiều, vào một ngày tháng 2-1961, Bác Hồ đến nhà số 6 đường Hoàng Diệu, Hà Nội để làm việc với anh Ba Lê Duẩn. Lúc ấy anh Ba còn đang nghỉ trưa. Bác Hồ nói nhỏ với chúng tôi: “Cứ để chú ấy nghỉ thêm chút nữa, các cháu đừng gọi chú ấy dậy, Bác cháu ta ngồi đây nói chuyện”. Bác hướng về phía tôi hỏi: “Cháu lâu nay vẫn đi theo chú Duẩn à?”. Tôi hơi giật mình vì đã hơn bảy năm rồi mà Bác vẫn còn nhớ. Tôi thưa Bác: “Dạ, từ cuối năm 1952 ở Việt Bắc cho đến nay, cháu vẫn theo phục vụ anh Ba”.
Bác nói chuyện với chúng tôi một lúc thì anh Ba đi từ trên lầu xuống chào Bác. Bác nói: “Ðể chú nghỉ một lúc nữa, sao cháu nào gọi dậy?”. Anh Ba mời Bác lên lầu làm việc cho đến ba giờ chiều.
Ngày 19-5-1966, dịp sinh nhật lần thứ 76, Bác Hồ lên nghỉ tại nhà khách Hồ Tây. Bác Hồ cho gọi chủ nhiệm nhà khách lên gặp. Bác nói liền: “Cháu lên đây rồi à!” – “Thưa Bác, được sự đồng ý của anh Ba Duẩn, Văn phòng Trung ương Ðảng điều cháu lên làm chủ nhiệm nhà khách Hồ Tây ạ”. Hôm đó, Bác bảo tôi chuẩn bị bữa cơm để Bác mời thư ký, bác sĩ, bảo vệ, lái xe, phục vụ và ban chủ nhiệm nhà khách. Bác còn dặn thêm “... nhớ làm cơm ngon nhưng đừng lãng phí”.
Ðúng 11 giờ 30 phút hôm ấy mấy Bác cháu cùng dùng cơm. Trước khi ăn, Bác đi qua một lượt xem các món ăn, và dặn “mọi người nên ăn cho hết”. Hôm đó, tôi vinh dự được đại diện anh em chúc mừng sinh nhật lần thứ 76 của Bác. Viết bài này, tôi xin thắp nén tâm nhang để hứa với Bác suốt đời học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người.
Theo Nguyễn Văn Hoành (Tư Hoành)
Nguyên Phó Cục trưởng T.78 thuộc Văn phòng Trung ương Ðảng
Huyền Trang (st)/nhandan.com.vn