Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế đặc thù trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, chưa có tiền lệ trong nền kinh tế thế giới. Thời gian qua, các thế lực thù địch, những đối tượng cơ hội chính trị có nhiều quan điểm sai trái, lệch lạc về vấn đề này.
Một số quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay
Vì vậy, việc xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở nước ta là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để có mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện Việt Nam và hội nhập quốc tế.
Khái niệm nền KTTT định hướng XHCN được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001). Đại hội IX xác định: “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền KTTT định hướng XHCN”1. Với mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất để từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Nhận thức về mô hình KTTT định hướng XHCN dần được sáng tỏ, được phát triển cả về lý luận và thực tiễn qua Đại hội X của Đảng. Đặc biệt là quan điểm về tính định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta là: “Thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”; Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn”2, đó là kim chỉ nam cho sự phát triển mô hình có tính đặc thù mà trong lịch sử chưa có tiền lệ.
Một số loại hình kinh tế ở Việt Nam. Ảnh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng làm rõ nội hàm, mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN: “Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”3.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường định hướng XHCN về cả nội hàm, mục tiêu và cách thức thực hiện: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”4.
Đại hội XII đã có bước phát triển mới rõ nét, khẳng định trong giai đoạn hiện nay, cần thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: “Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”5.
Tiếp tục làm rõ hơn, Đại hội XIII của Đảng nêu cụ thể: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”6.
Đảng xác định mục tiêu xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là: “Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn”7.
Về mục tiêu cụ thể, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”8.
Trong Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng cũng yêu cầu “ hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển KTTT định hướng XHCN”, nhưng với nội dung và mục đích mới. Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm “nâng cao hiệu lực” quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước về kinh tế, thì Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”. Đây là một cách tiếp cận vấn đề rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững.
Một số vấn đề đặt ra
Trong bài “Bối cảnh quốc tế, trong nước và các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng”, về xác định tình hình trong nước có đánh giá rất cụ thể. Chưa bao giờ tầm vóc và sức mạnh của dân tộc, của đất nước lại rạng rỡ và mạnh mẽ như hôm nay.
Nhưng mặt khác, những thách thức đối với cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch cũng không hề nhỏ mà lý do chính là những tồn tại, khiếm khuyết trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm qua, kinh tế vĩ mô của nước ta cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu giảm dần nhưng vẫn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. “Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.
Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội.
Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới… Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút”9.
Về tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN, được bắt đầu ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, tuy nhiên đây là vấn đề rường cột trong nội dung đổi mới và rất phức tạp, đòi hỏi sự đổi mới trong nhiều lĩnh vực.
Vì vậy, trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội vấn đề này luôn được coi là một nội dung trọng tâm, cần phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất cập.
Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo”10.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thực tiễn quá trình cách mạng của nước ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề không đơn giản. Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch ròi.
Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử dụng những giải pháp và cách thức phát triển của CNTB để xây dựng CNXH đặt ra nhiều thách thức đối với công tác lý luận và có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch.
Thực tế cho thấy, trước những bước ngoặt của sự nghiệp cách mạng, những khó khăn của đất nước hoặc ở thời điểm quan trọng, nhạy cảm, các thế lực thù địch thường đẩy mạnh chống phá về tư tưởng, còn trong nội bộ có thể xuất hiện những quan điểm lệch lạc.
Vì thế, việc nghiên cứu xác định rõ những luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng cần được chú trọng hơn; chống cả những quan điểm thù địch diễn ra thường xuyên và nhất là trong các thời điểm trước và sau những sự kiện quan trọng. Chúng ta cần tập trung một số vấn đề sau:
Nhận thức không thể phủ nhận thành tựu xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới.
Đổi mới ở Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Đó là sự lựa chọn tất yếu nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh
Thế giới hiện nay là thế giới toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; là cả một không gian mở, đan xen lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau. Một khi khủng hoảng kinh tế ở một khu vực hoặc một nước lớn sẽ kéo theo khủng hoảng toàn cầu; một khi giá dầu mỏ lên xuống thất thường và đột biến đủ làm cho kinh tế thế giới bị ảnh hưởng…
Như vậy, cùng với việc đổi mới nhận thức của toàn nhân loại, đặc biệt là của giới lãnh đạo các nước về trách nhiệm chung đối với sự phát triển thế giới, những nhân tố khách quan nêu trên vừa thúc đẩy, đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho việc cùng tồn tại và hợp tác cùng phát triển đối với tất cả các nước.
Trong khi nhận thức rõ sự hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện nay là khá toàn diện, thì không thể quên rằng giữa hai chiều hướng phát triển này vẫn chứa đựng những mâu thuẫn vốn có.
Các thế lực hiếu chiến và thù địch chưa bao giờ từ bỏ dã tâm muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội. “Diễn biến hòa bình” là một trong những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu đó. Đây là cuộc chiến tranh không khói súng nhưng thực sự là kế sách nham hiểm phá vỡ thành lũy của chủ nghĩa xã hội từ bên trong.
Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước XHCN, cũng như đối với giai cấp những người lao động trên toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không kém phần gay gắt, quyết liệt và phức tạp.
Bởi vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư, công nghệ và hợp tác, giao lưu với các nước tư bản, các nước XHCN phải luôn kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng và giữ vững định hướng XHCN, hợp tác cùng phát triển nhưng luôn cảnh giác và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu, lý tưởng của mình.
Từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của V.I.Lênin.
Nhận thức phê phán quan điểm cho rằng Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và trá hình chủ nghĩa xã hội
Quan điểm trên hoàn toàn sai trái. Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung bỏ qua chế độ TBCN. Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”11. Đây là bước tiến về nhận thức của Đảng khi xác định rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về CNXH ngày càng rõ hơn.
Nhận thức được những vấn đề lý luận căn bản đó sẽ giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc đường lối của Đảng về hoàn thiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, củng cố niềm tin đối với quá trình đổi mới và con đường phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Chuyển hóa từ nhận thức vào hành động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đối với mỗi cán bộ lãnh đạo quản lý theo vị trí việc làm đó là tổ chức thực thi các chính sách của Nhà nước và tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong việc hoạch định chính sách nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, mỗi ngành, trên cả nước.
ThS. ĐẶNG THỊ TỐ TÂM, Học viện chính trị khu vực I
Theo Báo Quân đội nhân dân
Tâm Trang (st)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật , H.2001, tr.86
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006, tr.77
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.204-205
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016, tr.102
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016, tr.25 – 26
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t1, tr.128
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006, tr.77
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t1, tr.217
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 67-68
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t1, tr.80
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sdd, t.60, tr. 179
Tài liệu tham khảo
1. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, GS.TS Vũ Văn Hiển chủ biên - “Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng” - Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, t1, H. 2020, tr 14 - 24