Sau khi nhân dân ta giành được chính quyền tháng 8/1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc với mục đích duy nhất là giải phóng nhân dân khỏi mọi ách áp bức, xây dựng cuộc sống mới ấm no hạnh phúc. Cũng từ đó, Đảng ta đứng trước thử thách to lớn: không những phải phấn đấu, rèn luyện trở thành một chính Đảng thật trong sạch vững mạnh mà còn phải đổi mới phương thức lãnh đạo để ngày càng gắn bó với quần chúng hơn.

Đảng vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành và phải có trách nhiệm chăm lo đến cuộc sống của toàn dân bởi: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”1. Bên cạnh đó, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của Đảng ta thống nhất với nhau không thể tách rời, lấy nền móng là khối đại đoàn kết toàn dân, và muốn củng cố nền móng đó, Đảng phải biết chăm lo lợi ích thiết thực và lâu dài cho quần chúng nhân dân: “Phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng. Tức là hết lòng ra sức phụng sự nhân dân, tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, học hỏi nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân và không một phút nào xa rời nhân dân, cùng nhân dân kết thành một khối”2. Ngược lại, nhân dân có tin yêu, kính phục cán bộ đảng viên thì mới nguyện đồng lòng cống hiến tài sức để ủng hộ và xây dựng Đảng, mà đảng viên và cán bộ: “Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”3.

Nhân dân là người quyết định việc xây dựng chính quyền và đoàn thể từ xã làng đến Trung ương. Mọi việc lớn nhỏ trong một quốc gia đều do nhân dân thực hiện, do đó từ khi lãnh đạo Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng một chính đảng trong sạch vững mạnh, đây là công việc của toàn dân nếu: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”4. Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả cán bộ đảng viên đều nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh chân lý dân vi quý này, rất nhiều người mắc sai phạm nghiêm trọng, dẫn đến hậu quả làm cho Đảng xa dân và dân sẽ không còn là cái nền móng bền vững nữa một khi lòng tin với Đảng không trọn vẹn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai phương pháp lãnh đạo, quan hệ, làm việc của đảng viên với quần chúng hoàn toàn đối lập như sau:

1. Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân, bắt dân chúng theo. Như thế là cách làm đi ngược lại nguyên tắc vì nhân dân phục vụ của Đảng ta, đó là những cán bộ đảng viên: “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan chủ. Miệng thì nói phụng sự quần chúng, nhưng họ làm trái ngược với phương châm chính sách của Đảng và Chính phủ”5. Làm theo cách đó họ cũng có thể hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng, không tốn sức và đỡ mệt óc nhưng cho dù thành công trước mắt thì về lâu dài vẫn thất bại vì họ đã thản nhiên xây cao dần một bức tường vô hình ngăn cách Đảng và nhân dân, tách rời lợi ích của nhân dân với đường lối chủ trương của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra những biểu hiện của thái độ và hành động này là:

- Xa nhân dân: Cán bộ đảng viên cho mình là đầu tàu lãnh đạo, là trung tâm, hạt nhân quan trọng bậc nhất nên có quyền quyết định mọi vấn đề theo chủ quan, không cần tham khảo dân nữa. Những người này trở nên khoe khoang, kiêu ngạo, lạnh lùng, tự cho mình là thầy thiên hạ, đứng trên quần chúng mà không cần bận lòng đến tâm lý, nguyện vọng của nhân dân và họ đã tạo ra một hố ngăn cách giữa Đảng và nhân dân. Sự thiển cận và ngộ nhận khiến cho họ không nhớ ra nổi: “Tục ngữ có câu: Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây chụm lại thành hòn núi cao. Việc gì mà một mình tuy có tài giỏi mấy cũng không làm được, mà nhiều người chung sức lại, thì việc gì cũng làm được”6.

- Khinh nhân dân: Cán bộ đảng viên cho rằng chỉ mình có đào tạo bài bản, chính quy, bằng cấp này nọ nên văn hóa và học thức đầy mình còn nhân dân chẳng qua là dân ngu khu đen, chỉ đâu đánh đấy, chẳng bao giờ hiểu được lý luận chính trị cao xa, cho nên một số nơi cán bộ đảng viên lừa dân, lòe bịp dân bằng văn bản, báo cáo, chỉ thị để mưu lợi cá nhân, họ quên mất nhân dân rất nhạy bén, khôn khéo, hăng hái, anh hùng: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”7.

- Sợ nhân dân: Cán bộ đảng viên mỗi khi mắc khuyết điểm, sai lầm thì bao biện, che giấu, lẩn tránh trách nhiệm vì sợ nhân dân phê bình mình mất thể diện, có những người còn bảo thủ đến mức ngại sửa chữa khuyết điểm. Họ chỉ muốn phô ra sự hoàn thiện, cái cao đẹp, vĩ đại của bản thân, cố hết sức che đậy thật kín thói xấu và nhược điểm mà không hiểu: “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi”8.

- Không tin cậy nhân dân: Cán bộ đảng viên tự cho rằng chỉ mình có đủ năng lực, tri thức và tinh thần đảm đương công việc, còn quần chúng nhân dân chưa đủ tầm cỡ. Hễ giao việc cho quần chúng là không yên tâm, dễ hỏng việc hoặc mất đi ý nghĩa trọng đại. Những người này không biết: “Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”9.

- Không hiểu biết nhân dân: Đối với nhân dân thì trăm nghe không bằng một thấy. Hết thảy nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực nhất (gần xa, riêng chung, bộ phận và toàn cục) chứ không thể nghe lý luận giáo điều, lời hứa hẹn suông trong khi đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng lại khó khăn, thiếu thốn, chỉ khi: “Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng, Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”10.

- Không thương yêu nhân dân: Cán bộ đảng viên chỉ biết đòi hỏi, yêu cầu, ra lệnh cho nhân dân bằng bàn tay năm ngón và con dấu đóng vào văn bản giấy tờ mà không đếm xỉa đến ý nghĩ, nguyện vọng, tâm tư của nhân dân: “Thậm chí khi dân chúng đưa ra ý kiến và nêu rõ vấn đề, họ cũng tìm cách dìm đi. Họ chỉ làm theo ý kiến của họ, kết quả làm cho dân chúng nghi ngờ, uất ức, bất mãn”11, thế là nhân dân cũng sẽ mất dần đi lòng tin yêu đối với cán bộ đảng viên.

Hiện nay, ở nhiều địa phương, ban ngành, những căn bệnh này đã trở nên khá phổ biến và có nguy cơ trầm trọng hơn, thậm chí khá nhiều cán bộ đảng viên còn biến thái đến mức lừa phỉnh, trấn áp, dọa nạt, khống chế quần chúng nhân dân, đặc biệt là đối với những ai dám dũng cảm nói thẳng, nói thật, lên án những hành vi quan liêu, tham ô, tham nhũng, hối lộ, lãng phí của những vị lãnh đạo có quyền chức. Nhiều đảng viên biến chất nghĩ rằng có quyền hành, pháp chế trong tay thì muốn làm gì cũng được, một tay cũng che hết mặt trời nhưng thực ra dân chúng đều biết rõ tất cả thông qua phương pháp đối chứng. Họ so sánh trước kia và bây giờ, lập pháp và hành pháp, việc này với việc khác, cách xử lý của ngành này với ngành khác, mức độ nặng nhẹ, thông tin xuôi chiều và ngược chiều... cuối cùng họ cũng tìm ra bản chất, kết quả kèm theo lời bình luận dân gian và những phương án đáng ra nên làm công khai, hợp lý, công bằng hơn, và: “Đối với cán bộ cũng vậy. Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ nào có lầm lỗi mà có thể sửa đổi, ai làm việc gì hay, việc gì quấy, dân chúng cũng do cách so sánh đó mà họ biết rõ ràng”12.

2. Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến quần chúng, cùng quần chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng mà ra sức làm. Những nguyên tắc theo đường lối nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:

- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất bởi nước ta đã là nước dân chủ thì: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”13, cho nên đã: “Gọi là đảng viên thì phải nhận rõ, phải biết rõ Đảng ta phải làm gì, vào Đảng để làm gì. Đảng ta là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng”14, chứ Đảng không phải: “Là một tổ chức để làm quan phát tài”15.

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng trong mọi công tác thiết thực phải bắt đầu từ quần chúng và được kiểm nghiệm trong quần chúng. Nếu không có quy trình như vậy thì tư tưởng, lý luận trở thành sáo rỗng, đường lối của cán bộ đảng viên rất quan liêu và không phù hợp với thực tế, sẽ dẫn đến sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “ Phải lấy thực tế hành động tranh đấu hàng ngày để giáo dục, làm cho quần chúng thấy lực lượng của họ, phát huy sáng kiến, tự họ giải quyết vấn đề, tự họ nâng cao địa vị kinh tế, chính trị, văn hóa của họ”16.

- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Kinh nghiệm từ các địa phương và vùng miền cho thấy nơi nào công tác yếu kém, có nhiều tiêu cực, mâu thuẫn kiện cáo chồng chéo là nơi đó cán bộ tách ra khỏi quần chúng nhân dân, họ cho rằng quần chúng dốt nát nên không thèm bàn việc, miễn giải thích, đó là sai lầm không thể tha thứ được. Nhân dân rất đông, tai mắt nhiều, nhận thức và trình độ tuy không đồng đều nhưng đa dạng đủ đánh giá và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nếu như những vấn đề đó liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình, cho nên: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế mới có thể lôi kéo được quần chúng”17.

- Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Việc quần chúng phê bình cán bộ đảng viên là hoàn toàn có lợi và tích cực (nếu phê bình đúng), nó làm cho cán bộ và nhân dân hiểu nhau, thông cảm với nhau, đoàn kết hơn và giúp nhau cùng tiến bộ. Nếu cán bộ đảng viên có khuyết điểm thì thẳng thắn nhận rồi quyết tâm sửa chữa; đường lối chính sách nào không hợp lòng dân thì công khai sửa đổi, dựa vào ý kiến của quần chúng để thay đổi tổ chức, điều chuyển cán bộ cho phù hợp, như thế thì nhân dân càng thấy rõ vai trò, tiếng nói của mình vì: “Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể. Mọi người có quyền phê bình nhau để cùng nhau tiến bộ. Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của mình”18.

- Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Nhân dân bao gồm các tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, trình độ, học vấn đa dạng phong phú nên cán bộ đảng viên phải tin vào dân chúng, học hỏi kinh nghiệm và tìm ra cách giải quyết tốt nhất cho công việc. Muốn học hỏi nhân dân thì cán bộ đảng viên phải thành thực, nhiệt tình, quyết tâm, khiêm tốn và chịu khó. Nếu tỏ thái độ chiếu lệ, hờ hững thì nhân dân sẽ không tin cán bộ, nếu có biết họ cũng không nói hoặc có nói cũng không hết vì miễn cưỡng hoặc không vui lòng, như thế thì sự học hỏi quần chúng mất đi ý nghĩa trọn vẹn và lâu dài. Tuy nhiên quần chúng cũng có người lạc hậu và tiến bộ nên cán bộ đảng viên phải biết lựa chọn và ứng dụng ý kiến của nhân dân một cách khoa học, sáng tạo: “Phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân. Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”19. Cán bộ đảng viên tuyệt đối không theo đuôi quần chúng, cái gì cũng cho là đúng, nói gì cũng coi là hay, chẳng mấy chốc sẽ đẽo cày giữa đường, mau chóng thất bại.

- Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo. Trong buổi lễ bế mạc Hội nghị cán bộ Đảng lần thứ 6, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hoá. Đảng có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó. Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng: Cần kiệm liêm chính”20. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, một bộ phận cán bộ đảng viên đang có xu hướng xuống cấp về tư tưởng đạo đức và quan niệm sống, thậm chí thoái hóa biến chất, quan liêu, tham nhũng, tham ô, lãng phí rồi trở thành tội phạm. Nếu để quốc nạn này tràn lan thì cán bộ đảng viên không còn là mực thước đầu tàu gương mẫu nữa mà chỉ là thước mực xấu xa, khiến cho quần chúng nhân dân mất dần lòng tin vào Đảng. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 20/01/1962 để bàn cách giải quyết những tiêu cực này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Quan liêu, lãng phí, tham ô làm hại cho dân. Phải hiểu vì dân mà chống tham ô, lãng phí. Tham ô, lãng phí là một tội đối với nhân dân. Ai cũng phải chống”21. Như vậy, chống lại tệ nạn này là một việc cực kỳ khó khăn, nan giải, dài lâu và cán bộ đảng viên trung kiên cần phải dựa vào quần chúng nhân dân mới có thể thành công.

Trong lịch sử hoạt động 90 năm hào hùng và oanh liệt của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự tận tâm chiến đấu để phục vụ nhân dân, vì thế toàn dân ta luôn coi Đảng như ngọn cờ chỉ lối đưa đường đến mọi thắng lợi. Bất cứ khi nào và nơi đâu, hễ ý Đảng lòng dân hợp nhất làm một thì mọi công việc to nhỏ khó khăn phức tạp đến mấy cũng thành công. Còn ngược lại, sự gắn bó thống nhất giữa ý tưởng và việc làm không tốt thì nơi ấy nảy sinh vấn đề và mọi việc không suôn sẻ. Chính vì vậy mà Đảng phải dựa vào dân thì mới tập hợp được sức mạnh và trí tuệ của toàn dân tộc. Cho dù có khó khăn đến mấy, người cán bộ đảng viên muốn cho nhân dân Tin thì phải quyết tâm làm vịêc và làm thành công. Đảng ta là một đảng cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở bộ máy chính quyền mạnh mẽ, trong sạch, khoa học và có năng lực cao. Muốn để dân Phục thì người cán bộ đảng viên phải thực hành cần - kiệm - liêm - chính - chí công vô tư. Phải xung phong làm đầu tàu gương mẫu để nhân dân theo. Phải có tinh thần chống quan liêu - tham nhũng - lãng phí triệt để cho Nhà nước trong sạch, vững mạnh thì mọi lợi ích của nhân dân mới đựơc đảm bảo, quyền dân chủ mới có hiệu lực. Đồng thời chúng ta phải phát huy tinh thần trách nhịêm tăng cường củng cố quản lý kinh tế, tài chính thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Mối quan hệ giữa Đảng với dân là quan hệ gắn bó mật thiết không thể tách rời và tác động qua lại với nhau. Không có quần chúng nhân dân thì không có Đảng. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng, xã hội phải dựa vào dân. Nhân dân sẽ dành tình yêu thương cho Đảng nếu như mọi cán bộ đảng viên đều làm vịêc hết lòng vì nhân dân, khó khăn gánh trước - quyền lợi hưởng sau, yêu quý học hỏi nhân dân, bởi: Ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích gì khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đánh giá một cách đầy đủ, chính xác nhất sức mạnh và vai trò của quần chúng nhân dân. Do đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy khi Đảng cầm quyền phải dựa vào nhân dânmà xây dựng Đảng, mà muốn Đảng vững mạnh, cán bộ và đảng viên phải làm cho dân tin - dân phục - dân yêu. Nhớ lại một câu chuyện cách đây 60 năm, khi Thành ủy Hà Nội báo cáo với Bộ Chính trị quy hoạch xây dựng và phát triển Thủ đô, Bác Hồ rất tán thành việc xây dựng nhà Quốc hội to đẹp nhưng lại chưa đồng ý về địa điểm xây dựng trụ sở Trung ương Đảng, Người nhắc khéo đồng chí Phó Bí thư Thành ủy: “Trụ sở Trung ương Đảng phải xây dựng trong lòng dân mới tốt”22. Qua đó, mỗi cán bộ đảng viên càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định sẽ thất bại”23./.

Đỗ Hoàng Linh

Phó Giám đốc Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Theo http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn

Đức Lâm (st)

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, tập 10, tr4
2. Sđd nt, tập 7, tr235
3. Sđd nt, tập 4, tr48
4. Sđd nt, tập 5, tr293
5. Sđd nt, tr292
6. Sđd nt, tập 8, tr150
7. Sđd nt, tập 5, tr295
8. Sđd nt, tập 4, tr166
9. Sđd nt, tập 5, tr295
10. Sđd nt, tập 7, tr572
11. Sđd nt, tập 5, tr294
12. Sđd nt, tr296
13. Sđd nt, tr698
14. Sđd nt, tập 12, tr221
15. Sđd nt, tập 5, tr249
16. Sđd nt, tập 7, tr28
17. Sđd nt, tr248
18. Sđd nt, tập 6, tr242
19. Sđd nt, tập 5, tr298
20. Sđd nt, tr552
21. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, tập 8, tr197
22. Chuyện kể về Bác Hồ. Nxb. Nghệ An 2000, tập 5, tr128
23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, tập 5, tr286

Bài viết khác: