Đời sống đất nước đang rất cần phát huy dân chủ thực chất và tăng cường kỷ cương, phép nước. Kết quả phòng, chống tham nhũng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay cho thấy, cuộc chiến đấu này càng có kết quả thì dân chủ trong xã hội nói chung, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nói riêng càng được nâng cao, niềm tin của nhân dân và sự đồng thuận của xã hội càng được củng cố. Do đó, trong thời gian tới cần phải tiếp tục giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa phát huy dân chủ với tăng cường kỷ luật, kỷ cương vì điều đó sẽ quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân với cử tri phường Hưng Thạnh, thành phố Cần Thơ. Nguồn: vietnamplus.vn
1. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ được tiếp cận trên những phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, dân chủ với giác độ là phương thức tổ chức nhà nước và chế độ chính trị (các hình thức, nguyên tắc, phương thức thực thi quyền lực nhà nước và quản lý nhà nước). Ở đây, dân chủ là khẳng định quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhân dân quyết định hình thức, quy mô, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước; bộ máy nhà nước, công chức nhà nước chỉ là người được nhân dân ủy quyền và là người phục vụ nhân dân. Dân chủ là bảo đảm cho nhân dân tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả trong công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước, của hệ thống chính trị và là chủ thể để Nhà nước và các thể chế chính trị phục vụ. Cách tiếp cận nguồn gốc của quyền lực để trả lời quyền lực từ đâu mà có? Ai là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước? Phương pháp tiếp cận này mang dấu ấn của chuyên ngành chính trị học.
Thứ hai, dân chủ như là những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức phải được thành lập thông qua bầu cử dân chủ và có thể bị bãi miễn; quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bộ phận cấp dưới, cấp cơ sở đối với cơ quan lãnh đạo cấp trên và cấp cao nhất; quy định mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, vai trò của các thành viên, hội viên trong quá trình đưa ra các quyết định của tổ chức (thiểu số phục tùng đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu số). Có một số nguyên tắc phổ biến hiện nay như: nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc dân chủ đồng thuận.
Thứ ba, dân chủ là giá trị xã hội, thể hiện ở trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của công dân và sự tham gia của họ vào đời sống xã hội. Từ cách tiếp cận này, nhiều tổ chức quốc tế đưa ra các tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ của các quốc gia.
Thứ tư, dân chủ là lý tưởng nhân sinh quan, thế giới quan, mục đích hoạt động của các lực lượng chính trị - xã hội. Điều đó có nghĩa là, dân chủ trở thành mục tiêu có tính cương lĩnh cho việc tổ chức và hoạt động của các lực lượng chính trị - xã hội nào đó. Cách tiếp cận từ mục tiêu của dân chủ sẽ giúp chúng ta lý giải mục tiêu hướng đến của các thiết chế và bộ máy nhà nước để thỏa mãn và hiện thực hóa những nhu cầu và khát vọng của người dân. Dân chủ là chính quyền hành động nhân danh và vì lợi ích của nhân dân.
Dân chủ được xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong hoạt động của cơ quan, đơn vị trong thời gian qua đã phát huy được quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; các nội dung, quy trình, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở trong cơ quan, đơn vị được thể chế hóa, bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được biết, được tham gia, được quyết định và được giám sát, kiểm tra trên cơ sở thực hiện các quy định của pháp luật.
Việc triển khai thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập làm cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, có ý thức rèn luyện phấn đấu trong công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có lối sống lành mạnh và trung thực; phát huy tinh thần dân chủ trong hoạt động, công tác, tích cực tham gia ý kiến về những việc cán bộ, công chức, viên chức được tham gia ý kiến. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức không ngừng rèn luyện để nâng cao năng lực chuyên môn và điều chỉnh lề lối làm việc theo hướng công khai, dân chủ.
Để bảo đảm Quy chế Dân chủ ở cơ sở được vận dụng hiệu quả, việc giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cần được quan tâm và xử lý hài hòa. Vì nếu dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức thì một số người sẽ núp dưới bóng dân chủ để làm điều xấu như lợi dụng dân chủ để vi phạm quy định và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, gây rối phá hoại làm mất đoàn kết nội bộ, lợi dụng việc dân chủ để khiếu nại, tố cáo, vu khống, bôi nhọ danh dự người khác hoặc xúi giục, kích động, tung tin thất thiệt, gây khó khăn cản trở cho hoạt động công vụ của cơ quan, đơn vị. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát huy dân chủ với tăng cường kỷ cương, kỷ luật được thể hiện qua các nội dung sau đây:
Một là, nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được Nhà nước bảo đảm các quyền lợi theo quy định của pháp luật, được thực thi quyền làm chủ trong cơ quan, đơn vị. Đồng hành với những quyền lợi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phải tuân thủ pháp luật, kỷ luật, kỷ cương, các quy định của cơ quan, đơn vị. Tất cả những gì là quyền lợi của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thì đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Hai là, nhận thức hài hòa, biện chứng hơn về mối quan hệ dân chủ với tập trung trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Ở Việt Nam, dân chủ và tập trung gắn bó tự nhiên, chặt chẽ trong mối quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự gắn bó biện chứng giữa dân chủ với tập trung được biểu hiện ở sự thống nhất giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; thiểu số phục tùng đa số; cấp dưới phục tùng cấp trên; cá nhân phục tùng tổ chức.
Ba là, nhận thức sâu sắc hơn về quan hệ biện chứng giữa dân chủ với chuyên chính; dân chủ với pháp luật, kỷ cương. Theo đó, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương; dân chủ và chuyên chính được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Mọi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đều bình đẳng trước pháp luật. Quyền lợi của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Nghiêm trị những cán bộ, công chức vi phạm pháp luật gây mất đoàn kết nội bộ, cản trở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Thực hiện dân chủ rộng rãi đi đôi với việc tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí bằng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế và hình sự.
2. Về thực hiện dân chủ trong bối cảnh hiện nay, cần chú ý nhìn nhận đầy đủ và chính xác một số điểm sau:
Thứ nhất, nền dân chủ mà chúng ta đang vận hành thực sự đang trong quá trình hoàn thiện và thực hiện chưa thống nhất, đồng bộ. Các biểu hiện của điều này rất dễ thấy, trước hết đó là các thành tố tạo nên dân chủ ở cơ sở của chúng ta chưa thật đầy đủ. Các quyền của người dân là nền tảng của dân chủ ở cơ sở còn chưa được xác định cụ thể và chưa ăn sâu bám rễ vào đời sống cộng đồng.
Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phát triển mạnh mẽ, thế giới ngày càng “phẳng”, tư tưởng dân chủ ngày càng có cơ hội lan truyền nhanh chóng. Sẽ có những luồng tư tưởng khác nhau về dân chủ thâm nhập vào đời sống xã hội của chúng ta như một quy luật của sự giao thoa do quá trình hội nhập quốc tế và sự phát triển của khoa học - công nghệ tạo ra. Tính độc quyền thông tin không còn phù hợp và sự lựa chọn các xu hướng dân chủ của người dân sẽ là điều tất yếu. Muốn có được một nền dân chủ mong đợi, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta thì hiển nhiên với cách làm như lâu nay sẽ khó đạt được. Nói cách khác, chúng ta sẽ phải thay đổi cơ bản từ cách tuyên truyền, giáo dục đến thể chế và hành động.
Thứ ba, chúng ta đang xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý rằng, nền kinh tế thị trường không phải là một ý thức hệ mà là một hệ thống các tập tục và thiết chế đã được hình thành trong thực tế của các nước phát triển và được kiểm nghiệm qua thời gian với mục tiêu tạo cho mọi cá nhân và xã hội có thể có một đời sống phát triển về phương diện kinh tế. Các đặc tính xác định chủ yếu của một nền kinh tế thị trường là quyết định đầu tư và phân bổ nguồn lực và hàng hóa sản xuất chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường.
Với những đặc điểm như trên, có thể nói vai trò của dân chủ ở cơ sở trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay là rất lớn. Nhưng vai trò đó sẽ không thể có được một cách tự nhiên mà nó chịu tác động của rất nhiều điều kiện có tính ràng buộc. Những tác động của những điều kiện đó có tính biện chứng, nghĩa là chúng thúc đẩy và duy trì lẫn nhau.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau Dương Thanh Bình tiếp và đối thoại trực tiếp để giải quyết những phản ánh, kiến nghị của nhân dân. Ảnh: TTXVN
3. Để tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức của người dân về quyền và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân và chính quyền do dân làm chủ “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” và “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, để tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng, trước hết cần phải nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện quyền làm chủ. Quyền và trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề, có liên quan mật thiết với nhau, không thể chỉ nhấn mạnh quyền mà coi nhẹ trách nhiệm hoặc ngược lại, không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm mà coi nhẹ việc bảo đảm quyền làm chủ của người dân.
Để người dân có thể thực hiện đúng, đủ quyền và trách nhiệm của mình, cần phải nâng cao năng lực làm chủ cho người dân, tức là tạo cho người dân có kiến thức, kỹ năng và thái độ, thói quen trong thực hiện dân chủ. Năng lực làm chủ của người dân phụ thuộc trực tiếp vào hai yếu tố: Quyền được thông tin và trình độ học vấn, sự hiểu biết về xã hội của người dân. Do vậy, Nhà nước cần phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí và bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin của người dân như là những giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực làm chủ, bảo đảm quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng. Mặt khác, về phía người dân cũng phải tự chăm lo đến việc nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết xã hội và đòi hỏi được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác qua các kênh thông tin khác nhau.
Để thực hiện dân chủ ở cơ sở cần bảo đảm quyền được thông tin về luật pháp, chính sách của Nhà nước và các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, nhất là ở cơ sở xã, phường, thị trấn; liên quan đến các nhu cầu, lợi ích hằng ngày của người dân, cũng như đến việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước,... Với người dân ở cơ sở, trước hết cần hiểu rõ quyền làm chủ của họ một cách cụ thể, gồm những vấn đề gì và điều kiện thực hiện quyền đó như thế nào? Việc này có thể thực hiện thông qua hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình để giới thiệu, tuyên truyền. Đồng thời cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội có thể truyền đạt, giải thích trực tiếp cho người dân trong các cuộc họp ở thôn, xóm, tổ dân phố... Cần khuyến khích người dân nêu lên những nhận thức và những băn khoăn, thắc mắc còn tồn tại để giải thích kịp thời, thỏa đáng, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về quyền và trách nhiệm của họ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Hai là, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Trước hết, mỗi cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước cần thấm nhuần và nhận thức sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Từ đó, các cấp chính quyền, các cán bộ, công chức cần xác định đúng và rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện dân chủ, mà trực tiếp là thực hiện các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở như là một nghĩa vụ bắt buộc của mình, chứ không phải sự ban phát cho người dân. Tiếp theo, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, được hưởng thụ các quyền tự do, dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; được sử dụng quyền làm chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân và bảo toàn lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ, chính quyền các cấp, nhất là chính quyền cơ sở phải thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của mình, cũng như trách nhiệm giải trình trước nhân dân địa phương. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện đúng, đủ, có hiệu quả các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Mặt khác, cán bộ, công chức nhà nước cần đổi mới phong cách, thái độ ứng xử với người dân theo đúng tính chất là “công bộc của dân”, là người phục vụ dân; khắc phục căn bệnh quan liêu, cửa quyền, hách dịch, lạnh nhạt, vô cảm khi tiếp xúc với dân, vẫn đang còn khá phổ biến hiện nay. Chỉ có trên cơ sở đổi mới phong cách, thái độ của chính quyền với người dân thì mới có thể khuyến khích người dân dám nói, dám làm, dám biểu lộ chính kiến, quan điểm của mình theo tinh thần thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Bên cạnh đó, để tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở, Nhà nước còn phải thực hiện các biện pháp như: Kiên quyết chống nạn tham nhũng và quan liêu của cán bộ chính quyền các cấp; cấm trù dập, trả thù những người đã mạnh dạn tố cáo những sai trái của cán bộ nhà nước; xử lý thích đáng, nghiêm minh những kẻ vi phạm luật pháp, vi phạm lợi ích của nhân dân và xã hội,... Trách nhiệm của Nhà nước và trách nhiệm của người dân trong việc phát huy dân chủ ở cơ sở có mối quan hệ gắn bó trực tiếp, hỗ trợ, thúc đẩy nhau để bảo đảm một nền dân chủ thực sự trong cuộc sống thường ngày của người dân, nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ, kể cả dân chủ ở cơ sở.
Ba là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở, cần nghiên cứu bổ sung, khắc phục những hạn chế, bất hợp lý trong các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Về những nội dung cần công khai để dân biết; những nội dung dân bàn và quyết định; những nội dung dân giám sát; bổ sung quy định về chế tài xử lý các vi phạm của chính quyền và của người dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở,...
Nâng cao trình độ dân trí và bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin là một giải pháp để nâng cao năng lực làm chủ của người dân. Ảnh: TTXVN
4. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trong đó, dân chủ là một nội dung cần thiết cho việc phát triển và hoàn thiện đường lối, chiến lược trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trước mắt cũng như lâu dài của đất nước, dân tộc ta. Trong suốt tiến trình cách mạng nước ta, Đảng ta luôn luôn xác định dân chủ là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chế độ xã hội mà nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân, của nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam, để xây dựng nên là chế độ dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng khác về chất với những chế độ dân chủ khác. Đặc trưng cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn luôn là vấn đề mang tính sống còn của chế độ ta và là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trong suốt tiến trình đổi mới ở nước ta hơn 30 năm qua, mục tiêu của đổi mới về chính trị là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân lao động - chủ thể sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là tiền đề của toàn bộ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Nó còn là thước đo sự hoàn thiện trong tổ chức và sinh hoạt Đảng cũng như là chuẩn mực để đánh giá sự tiến bộ của toàn xã hội nói chung. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, tham gia toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng của Việt Nam với thế giới hiện nay, dân chủ được xem như phương tiện, tiếng nói chung, xu hướng phát triển chung của cộng đồng nhân loại.
Dân chủ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, là cách thức để mỗi cán bộ, đảng viên tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển Đảng về mọi mặt. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu phải nhận thức một cách đúng đắn bản chất của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa như một điều kiện để tạo nên sự đồng thuận trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Một nội dung có ý nghĩa cốt lõi của toàn bộ quá trình nhận thức về dân chủ là ý thức dân chủ. Ý thức dân chủ là một hình thái ý thức của con người, của chủ thể nhận thức, thể hiện một trình độ cao về dân chủ của mỗi chủ thể nhận thức. Muốn có ý thức dân chủ thì phải có được nhận thức đầy đủ về dân chủ, có nghĩa là mỗi con người chúng ta, mỗi chủ thể nhận thức phải có được một hệ thống tri thức tương đối đầy đủ về dân chủ, những giá trị cao đẹp của dân chủ, phương thức thực hành dân chủ, bản chất thật sự của dân chủ nói chung và của hình thức cao nhất của nó là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khi đã có được hệ thống tri thức tương đối đầy đủ về dân chủ thì mỗi chúng ta, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ có được những hành động phù hợp với những giá trị đích thực của dân chủ, biến thành ý thức dân chủ tự giác thực sự.
Có ý thức dân chủ thì mới là tiền đề để có được trình độ cao hơn trong quá trình nhận thức đó là văn hóa dân chủ. Văn hóa dân chủ hay nói cụ thể hơn là văn hóa chính trị trong nhận thức và thực hành dân chủ là biểu hiện cao nhất của các chủ thể nhận thức nói chung và của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng về dân chủ. Văn hóa dân chủ còn là thước đo sự phát triển của xã hội trong nhận thức và thực hành dân chủ. Phải hướng đến việc xây dựng văn hóa dân chủ trong toàn xã hội, nhưng trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Văn hóa dân chủ từ ngay trong nội bộ Đảng sẽ là tiền đề để lan tỏa và xây dựng văn hóa dân chủ trong toàn bộ xã hội.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay, “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”1. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa như vậy trong bài phát biểu khai mạc Đại hội XII của Đảng. Chính vì vậy, cần phát huy dân chủ đầy đủ, thực chất hơn, làm cho dân chủ thực sự là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới, phát triển. Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức, viên chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Bên cạnh đó, cũng cần đề cao trách nhiệm công dân, phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc./.
Trương Hòa Bình
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ
Theo Tạp chí Cộng sản điện tử
Tâm Trang (st)
------------------------------
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 38