nguyen tac to chuc quyen luc
Ảnh minh họa. Ảnh: TTXVN

Từ thực tiễn chính trị Việt Nam có thể khẳng định, một trong những nội dung cốt lõi của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng một nhà nước mà ở đó, nhân dân “là chủ” và có thể “làm chủ”. Điều đó có nghĩa là, mọi quyền lực nhà nước đều là của nhân dân, đều thuộc về nhân dân và đều xuất phát từ nhân dân.

Quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy thác và giao phó: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”1. Do vậy, việc tìm hiểu nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ thể của quyền lực nhà nước là nhân dân

Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”2.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời ngày 03-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”3. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo được ban hành đã khẳng định một cách dứt khoát: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”4. Tinh thần của nguyên tắc ấy tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp năm 1959 bằng quy định tại Điều 4: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”5.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước, của quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa là, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân. Quyền lực nhà nước, dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ cũng có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền (trực tiếp hoặc gián tiếp) của nhân dân.

Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, tuy chỉ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là các cơ quan mà thành viên của cơ quan này do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhưng điều đó không có nghĩa chỉ có các cơ quan này mới là các cơ quan được nhân dân ủy thác quyền lực. Quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước khác thực hiện (dù đó là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp hay bất cứ cơ quan nhà nước nào khác) cũng là sản phẩm của sự trao quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ nhân dân (thông qua Hiến pháp và pháp luật).

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”6. Người coi độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc.

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lựa chọn tối ưu của loài người về con đường đi bảo đảm thực hiện lý tưởng nhân văn, bảo đảm cho mọi người phát triển đúng nghĩa chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nguyên tắc của tổ chức quyền lực nhà nước là xây dựng chế độ Cộng hòa dân chủ nhân dân. Bản chất của chế độ dân chủ này là: Dân chủ với quảng đại quần chúng nhân dân và trấn áp kẻ thù của cách mạng, bảo đảm sự phát triển của xã hội Việt Nam theo khuynh hướng tối ưu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước được thể hiện ở việc nhà nước đó phải thực hiện được mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, qua đó từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện sự công bằng, bình đẳng trong mọi quan hệ xã hội. Khắc phục có hiệu quả tình trạng tự cấp, tự túc của nền kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Thúc đẩy áp dụng khoa học - công nghệ, kỹ thuật mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh, để tăng năng suất lao động, số lượng, chất lượng các loại hàng hóa và dịch vụ. Thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, địa phương và các quốc gia trên thế giới.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước

Đảng Cộng sản là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, nằm trong hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với hệ thống chính trị và đối với xã hội là một đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có theo đúng những định hướng, mục tiêu và phản ánh được bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa hay không. Vì vậy, giữ vững, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Từ khi cách mạng giành được chính quyền đến nay, qua các giai đoạn lịch sử, về thực tế, Đảng đã lãnh đạo chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo đó được nhân dân và các tổ chức thừa nhận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và phát triển của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 không công khai quy định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng nhưng về thực tế, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước, thông qua chế định Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Đảng lúc bấy giờ. Hiến pháp năm 1959 trong lời nói đầu đã thể hiện công khai quyền lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Hiến pháp 1980, 1992 và Hiến pháp 2013 sửa đổi Hiến pháp 1992 đều khẳng định trong Điều 4 rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo toàn xã hội Việt Nam.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thực chất là lãnh đạo chính trị, thực hiện quyền lực chính trị của một Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo bằng chính sách, định hướng, bằng cương lĩnh với phương pháp giáo dục, thuyết phục, dân chủ, bằng uy tín và trí tuệ chứ không sử dụng phương pháp quyền lực, cưỡng chế. Đảng lãnh đạo Nhà nước trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này bảo đảm pháp luật là tiêu chuẩn cao nhất của xã hội và tránh được sự bao biện, làm thay của Đảng trong thực hiện các chức năng của Nhà nước.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Ngay từ những năm đầu đi tìm đường cứu nước cũng như trong suốt quá trình hoạt động và nghiên cứu sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tiếp nhận tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Năm 1919, tại Hội nghị Versailles, Nguyễn Ái Quốc đã gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị. Bản yêu sách gồm 8 điều, trong đó yêu cầu cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu và thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Sau này, Người đã chuyển bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi người dễ nhớ, trong đó có 2 câu nổi tiếng: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”7. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để xác lập nền tảng pháp lý của một nhà nước kiểu mới theo hướng pháp quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp dân chủ đầu tiên ở Việt Nam - Hiến pháp 1946. Bản Hiến pháp này bảo đảm về mặt pháp lý các quyền dân chủ cơ bản của nhân dân, đồng thời là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương gấp rút cho soạn thảo và ban hành một bản Hiến pháp trong điều kiện khó khăn của những năm 1946 cho thấy, tư tưởng lập hiến luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt trong tiến trình xây dựng Nhà nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho sự hình thành một Nhà nước pháp quyền. Trong tư tưởng của Người, một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế. Pháp luật của nước ta là pháp luật dân chủ, do đó, dân chủ phải đi đôi với pháp luật, pháp luật phải đi đôi với giáo dục đạo đức. Pháp luật phải nghiêm minh, phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ công dân, thể chế hóa quyền dân chủ của người dân, pháp luật phải bảo đảm quyền công dân, quyền con người được tôn trọng trong thực tế. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và pháp luật, đồng thời chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, thực hiện thưởng phạt nghiêm minh.

Vận dụng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Quan điểm cốt lõi về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là một trong những sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân. Một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên nền tảng liên minh công nông và trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, những quan điểm đúng đắn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Các nguyên tắc đó luôn cần được bổ sung bởi các nhận thức mới và vận dụng thích hợp với từng điều kiện cụ thể. Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước trong mỗi giai đoạn sau này có không ít những thay đổi về mô hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều điểm đã thay đổi, nhưng quan điểm Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục định hướng cho các nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp đổi mới mô hình bộ máy nhà nước trong các điều kiện phát triển mới.

Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị…”8. Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước hiệu lực, hiệu quả, trước hết cần quán triệt sâu sắc những nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà nước trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh như sau:

Thứ nhất, đổi mới cả về nhận thức và hành động về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trong đó phải đặt người dân vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng “phục vụ nhân dân”. Với tinh thần đó, bộ máy nhà nước cần tổ chức gọn nhẹ, rõ ràng về chức năng, cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương... tạo điều kiện để nhân dân dễ tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát, huy động được tối đa trí tuệ, sáng kiến và sự đóng góp của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính sách, quyền lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Tiếp tục cụ thể hóa cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện việc phản biện xã hội và giám sát xã hội. Nhà nước quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.

Thứ hai, Đảng giữ vững nguyên tắc lãnh đạo Nhà nước bằng quan điểm, đường lối chính trị. Cần gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Đảng lãnh đạo Nhà nước, không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước nhưng Đảng nắm chắc công việc của Nhà nước để không bị động, lúng túng trong lãnh đạo Nhà nước. Ngoài ra, Đảng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn của một đảng cầm quyền, như: Xa dân, chủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xây dựng chủ trương, đường lối; dễ áp đặt ý muốn chủ quan đối với các cơ quan nhà nước hoặc tự đặt Đảng lên trên Nhà nước và pháp luật. Cần tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phân định và làm rõ mối quan hệ trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ” trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế.

Thứ ba, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công dân. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật để nhân dân hiểu được bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nắm vững và thực hiện quyền làm chủ và nghĩa vụ công dân của mình, hiểu được mọi quyền lực của Nhà nước đều do dân giao phó, các cơ quan nhà nước không tự có quyền lực. Song song với việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cần đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng dân chủ và ý thức tôn trọng pháp luật cho nhân dân, vì mức độ thể hiện dân chủ và ý thức tôn trọng dân chủ, tôn trọng pháp luật, mức độ tham gia đóng góp ý kiến được thể hiện thông qua trình độ hiểu biết chính trị, ý thức tự giác, lòng tự trọng và trách nhiệm của họ trong việc tham gia xây dựng luật pháp, giám sát việc thi hành luật pháp và tự giác chấp hành luật pháp.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất; đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những tiêu cực khác đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đội ngũ cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại của cách mạng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Cần xác định rõ vị trí việc làm, sắp xếp và bố trí đối với đội ngũ cán bộ, công chức, tránh tình trạng bộ máy hành chính phình ra quá lớn, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực hiện trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Phải kết hợp chặt chẽ các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ để xây dựng một đội ngũ cán bộ có tâm, đức, năng lực và thực sự là công bộc của dân.

Thứ năm, tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó, cung cấp những luận cứ khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; nhân dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước.

Như vậy, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung khá phong phú và đa dạng. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, những nguyên tắc đó đều phát huy những giá trị, là kim chỉ nam giúp Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đưa ra những chủ trương, chính sách để hoàn thiện mô hình tổ chức, bộ máy, hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng giúp Việt Nam phát triển đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.

TS. Nguyễn Duy Quỳnh
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Theo Tạp chí Cộng sản
Đức Lâm (st)

----------------------

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội, 2011, tr.263
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.698
  3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr.7
  4. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.8
  5. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.33
  6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.19
  7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr.473
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, Hà Nội

Bài viết khác: