Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 và Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020” cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta đã có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đông nhưng chưa mạnh, cơ cấu chưa hợp lý, một bộ phận có biểu hiện thóai hóa, biến chất, tham nhũng… gây bức xúc trong nhân dân. Bài viết nêu lên thực trạng công tác cán bộ và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII.

xay dung can bo
Bác Hồ với các Anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Nam (1965)

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ

Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến nhiệm vụ cấp bách là giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc Việt Nam trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Người đã đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (ngày 17/9/1945), Người viết: “Cán bộ ta nhiều người “cúc cung tận tụy”, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư (lấy của chung làm của riêng). Thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”(1). Tiếp đó, ngày 19/9/1945, Người viết bài “Chính phủ là công bộc của dân” với yêu cầu: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” (2).

Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76/SL ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Trong Lời nói đầu của Quy chế công chức Việt Nam viết: “Công chức Việt Nam là những công dân Việt Nam giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân... Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”. Điều 2 của Quy chế công chức Việt Nam quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Thống kê trong 15 tập của bộ “Hồ Chí Minh toàn tập” cho thấy, Chủ tịch Hồ Chủ tịch nhắc tới Đảng hơn 3.500 lần, nhưng gần 8.000 lần Người nhắc tới Dân, yêu cầu mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải “theo đúng đường lối nhân dân” với sáu điều:

“Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết;

Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;

Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;

Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình;

Sẵn sàng học hỏi nhân dân;

Tự mình làm gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính, để nhân dân noi theo”(3).

2. Thực trạng công tác cán bộ

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã tổng kết và ban hành Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020”.

Tính đến tháng 3/2017, tổng số cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta là 2.726.917 người, trong đó: Cán bộ, công chức là 611.069 người; viên chức là 1.983.981 người; hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP là 131.867 người(4).

Trình độ lý luận chính trị(5), chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ,... và năng lực, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều tiến bộ, cơ bản bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 Khóa VIII. Số cán bộ có trình độ sau đại học tăng lên rõ rệt, riêng trong 5 năm từ 2009 đến 2014, số người có trình độ đại học và trên đại học tăng gần 2 lần, từ 4,4% lên 7,3%(6). Số lượng cán bộ được quy hoạch khá dồi dào, bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, cấp ủy các cấp đổi mới khoảng 40%; Ban Chấp hành Trung ương đổi mới cao hơn (Khóa IX là 42%, Khóa X là 54,7%, Khóa XI 47%, Khóa XII là 48%).

Nhìn chung, đa số cán bộ, công chức, viên chức có lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức rèn luyện, phấn đấu, hòan thành tốt nhiệm vụ được giao, năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược(7) có tư duy đổi mới, có năng lực hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước(8). Một số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước những năm qua(9).

Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh(10). Cơ cấu giữa các ngành nghề, lĩnh vực(11), vùng miền chưa thật sự hợp lý; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi; thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành(12); tỷ lệ cán bộ trẻ(13), cán bộ nữ(14), cán bộ dân tộc thiểu số(15) chưa đạt mục tiêu đề ra. Độ tuổi bình quân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành, địa phương và trong lực lượng vũ trang còn cao(16). Số lượng sĩ quan, kể cả cấp tướng trong lực lượng vũ trang tăng nhanh(17). Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý, quản trị giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số còn thấp(18), tình trạng chạy theo bằng cấp, học hàm, học vị còn nhiều; các công trình khoa học, dự án đóng góp vào sự phát triển đất nước chưa xứng với học hàm, học vị. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế; một bộ phận cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp, làm việc trong môi trường quốc tế còn yếu; chưa phát huy tốt tiềm năng cán bộ; năng suất lao động, hiệu quả làm việc thấp(19); không ít cán bộ trẻ còn thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, không ít cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng(20) và bị xử lý theo pháp luật.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí; thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thóai hóa, biến chất, không làm tròn bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm trước những khó khăn của người dân, cục bộ địa phương.

Tình trạng cán bộ, đảng viên thóai hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp, chậm được khắc phục; một số tính đảng kém, bộc lộ tham vọng cá nhân, kèn cựa địa vị, gia trưởng, độc đoán, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, chối bỏ trách nhiệm khi xảy ra sai phạm, không muốn từ chức khi không hòan thành nhiệm vụ được giao; tùy tiện, bất chấp nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; dao động, mất lòng tin, sa vào chủ nghĩa cá nhân, mê tín, dị đoan; có biểu hiện suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu gương mẫu, gia trưởng, quan liêu, xa dân, chưa thật sự gắn bó máu thịt, mật thiết với nhân dân; tham nhũng, lãng phí(21), tiêu cực(22), lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước tính Đảng yếu, suy thóai, lợi dụng sơ hở, cố ý làm trái làm thất thóat vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng(23). Tình trạng chạy chức, chạy quyền(24), chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy tội... còn xảy ra khá phổ biến ở các cấp, các ngành, nhưng chậm được ngăn chặn và đẩy lùi(25), gây bức xúc trong dư luận xã hội(26).

Nạn ô dù, bao che, sự phân hóa giàu - nghèo bất hợp lý diễn ra ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; ở không ít nơi lợi ích cá nhân lấn át lợi ích tập thể, lợi ích cục bộ lấn át lợi ích toàn cục; tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thu vén cá nhân(27); để vợ (chồng), con, người thân trục lợi. Một số vụ tham nhũng, buôn lậu, tiếp tay cho làm ăn phi pháp phát triển thành những “đường dây” có tổ chức. Cá biệt có trường hợp do bất mãn dẫn đến phản bội lý tưởng của Đảng và lợi ích của nhân dân. Số thóai hóa chính trị tuy ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả xấu.

  1. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời gian tới

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nghị quyết đã xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo:

Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.

Hai là, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.

Ba là, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.

Bốn là, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.

Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.

Nghị quyết xác định 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ ở nước ta thời gian tới, cụ thể: Một là, nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ. Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Năm là, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền. Sáu là, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Bảy là, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.

Nghị quyết cũng xác định hai trọng tâm để tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên là: 1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; 2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.

Nghị quyết cũng chỉ ra 5 đột phá để tập trung thực hiện: 1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; 2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; 3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; 4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; 5) Hòan thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

Quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” chính là việc hiện thực hóa ý chí, quyết tâm và hành động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì một đất nước Việt Nam giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

PGS, TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Vụ trưởng Vụ Lý luận chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương
Theo http://tcnn.vn
Hà Minh (st)

----------------------

Ghi chú:

(1), (2) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.20, tr.21.

(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Sđd, tr.177.  

(4) Tính đến tháng 3/2017, tổng số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước là 3.958.400 người (chưa tính lực lượng vũ trang), trong đó: cán bộ, công chức 611.069 người; viên chức 1.983.981 người; hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP 131.867 người và 1.231.483 người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố và hợp đồng khác.

(5) Đội ngũ cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý ở các cơ quan Trung ương có trình độ lý luận cao cấp, cử nhân: năm 1997 là 97,64%; 2007 là 99,48% và 2017 là 100%.

(6) Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

(7) Cán bộ cấp chiến lược trong Đề án này có 585 đồng chí thuộc diện Trung ương quản lý.

(8) Công bố quốc tế của Việt Nam 15 năm qua tăng bình quân khoảng 17%/năm; hiện đứng thứ 4 trong khu vực (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan), xếp hạng một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản của Việt Nam: Toán học: đứng thứ hai trong khối ASEAN; vật lý lý thuyết: Đứng thứ ba trong khối ASEAN; toán tối ưu: Đứng thứ 19 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN (Sách Trắng Khoa học công nghệ 2015).

(9) Cán bộ cấp chiến lược: Chuyên ngành kinh tế, luật chiếm 60,49%; trong khi đó, ngành khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế là 16,56%; xây dựng đảng và chính quyền nhà nước là 8,36% (Biểu phụ lục số 2, số 9).

(10) Giữa cán bộ cấp xã với các cấp, giữa cán bộ Đảng, đoàn thể với cán bộ Nhà nước, giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước với khu vực hành chính nhà nước,...

(11) Tỷ lệ cán bộ cấp chiến lược dưới 45 tuổi chiếm 7,18%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh diện ban thường vụ quản lý dưới 40 tuổi là 1,81%, diện ban chấp hành quản lý là 7,85% (Biểu phụ lục số 10).

(12) Cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ từ cấp vụ trở lên ở Trung ương chiếm 17,54%; cấp tỉnh chiếm 12,28%, cấp huyện chiếm 9,98%, cấp xã chiếm 10,37% (Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị quy định là 25%).

(13) Cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số ở Trung ương khoảng 5%, cấp tỉnh là 14,7%; trong đó cán bộ lãnh đạo ở Trung ương chỉ có 1,42%, ở cấp tỉnh chỉ có 7,35%. Cán bộ người dân tộc diện Trung uơng quản lý công tác ở địa phương có xu hướng giảm (nhiệm kỳ 2010-2015: 33%; 2015-2020: 27%).

(14) Cán bộ diện Trung ương quản lý ở ban, bộ, ngành từ 56 tuổi trở lên chiếm 56,86%; diện Ban thường vụ cấp tỉnh quản lý từ 51-55 tuổi chiếm 44,54%, từ 56 tuổi trở lên chiếm 23,22%; cấp tổng cục từ 51-55 tuổi là 46,83%, từ 56 tuổi trở lên là 32,78%.

(15) Theo Tổng cục Thống kê, năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam tính theo thu nhập đầu người chỉ bằng 7% của Singapore, 17,6% của Malaysia, 36,5% của Thái Lan, 42,3% của Indonesia, 56,7% của Phillipines, 87,4% của Lào.

(16) Việc đầu tư gần 70.000 tỷ đồng sau nhiều năm cho 13 “đại dự án” chưa thể đưa vào khai thác, gây lãng phí, thất thóat lớn tài sản của Nhà nước.

(17) Xảy ra ở một số ngành như ngân hàng, dầu khí, kiểm lâm, thuế, hải quan, công an... gây bức xúc trong dư luận.

(18) Từ 2007 đến 2017, trong các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc đã phát hiện 7.190 vụ vi phạm, trong đó: 280 vụ phải xử lý hình sự, 1.715 cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật Đảng, 181 người phải xử lý bằng pháp luật (Báo cáo của Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương).

(19) Điều tra dư luận năm 2017: 57% cho rằng hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy danh hiệu, chạy bằng cấp không giảm so với năm 2016.

(20) Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

(21) Theo báo cáo kết quả thăm dò dư luận xã hội năm 2017, tình trạng chạy chức, chạy quyền xếp thứ 2 trong 9 vấn nạn mà nhân dân bức xúc trong năm 2017 (sau nạn tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm).

(22) Theo Báo cáo điều tra dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội - Ban Tuyên giáo Trung ương (số 01-BCĐT/VNCDLXH, ngày 01/3/2018) cho thấy: 38% người được hỏi cho rằng có hiện tượng đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, đặc quyền, đặc lợi, vun vén cá nhân.

Bài viết khác: