Một trong những di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta là bài học về phương pháp ngoại giao: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp mang tính nguyên tắc chỉ đạo này trong công tác đối ngoại hiện nay là rất cần thiết, quan trọng.

Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự hội nghị Phông-ten-nơ-blô (tháng 5 - 1946) trong điều kiện chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ và đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Lời huấn thị đó của Người không chỉ giúp chúng ta đề ra phương hướng, cách thức quản lý, điều hành đất nước, giải quyết tốt vấn đề “thù trong, giặc ngoài”, giữ vững nền độc lập, chính quyền cách mạng lúc bấy giờ, mà còn trở thành phương pháp, bài học quý trong công tác đối ngoại, được Đảng, Nhà nước ta vận dụng hiệu quả trong công cuộc giải phóng dân tộc trước đây, cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế hiện nay.

phuong phap ngoai giao
Lễ đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Sân bay Buốc-giê chiều 22-6-1946.(Ảnh tư liệu)

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái không thể thay đổi (bất biến) để ứng phó với muôn sự thay đổi (vạn biến). Theo đó, cái “bất biến” là lợi ích của quốc gia, dân tộc, mà độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,… là cốt lõi. Cái “vạn biến” là cách ứng phó tài tình, khéo léo, linh hoạt; kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo trong những tình huống cụ thể, mà dù trong hoàn cảnh nào, khó khăn đến đâu cũng phải giữ vững nguyên tắc để đạt cho được cái bất biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(1). Để thực hiện được “ứng vạn biến”, điều quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận và mặt bất lợi. Đặc biệt, về sách lược phải xác định được giới hạn của sự nhân nhượng để đề ra chính sách, phương pháp, cách thức tiến hành phù hợp, hiệu quả, đảm bảo giữ vững nguyên tắc chiến lược: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực tiễn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc chỉ ra rằng, chỉ có thể đạt được thắng lợi trên bàn đàm phán khi giành thắng lợi trên chiến trường. Bởi vậy, về lâu dài, ta phải mạnh lên cả về mặt chính trị và kinh tế, có vị thế quan trọng trên trường quốc tế thì tiếng nói trong ngoại giao mới có trọng lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”(2). Người còn nhấn mạnh: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(3).

Thực hiện phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra các chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược ngoại giao phù hợp, vừa đáp ứng nhiệm vụ trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài. Trong thực tiễn, hoạt động ngoại giao luôn nắm vững tình hình, kiên định mục tiêu, bản lĩnh vững vàng, xử lý khôn khéo, ứng phó thích hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng, từng vấn đề cụ thể để bảo vệ tốt nhất lợi ích của quốc gia, dân tộc. Những thành tựu của công tác đối ngoại, trong giải quyết mối quan hệ với đối phương, với các nước từng là kẻ thù của ta để được công nhận, giữ vững nền độc lập nước nhà đã minh chứng điều này. Trong đó, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khẳng định đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta nói chung, phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” nói riêng.

Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là vấn đề lớn, nội dung rộng, phong phú. Trong phạm vi bài biết, tác giả đề xuất mấy vấn đề có thể tham khảo, vận dụng:

 Trước hết, cần nhận thức, xác định rõ cái “bất biến”, cũng như cái “vạn biến” trong quan hệ quốc tế hiện nay. Cái bất biến, xuyên suốt, không có gì khác, đó chính là lợi ích quốc gia, dân tộc, là độc lập dân tộc, chủ quyền, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; là chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò, quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,… được tựu trung ở mục tiêu: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra và đang dẫn dắt toàn dân tộc đi những chặng đầu tiên với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hai thành tố “độc lập dân tộc” và “chủ nghĩa xã hội” vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, thống nhất chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Thấu triệt quan điểm này sẽ giúp chúng ta tăng cường, mở rộng, đi sâu vào hội nhập quốc tế, nhưng không làm phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, mất ổn định chính trị, xã hội, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Đồng thời, phân tích, làm rõ vấn đề thời đại, tình hình thế giới, khu vực để có chính sách ngoại giao phù hợp, hiệu quả.

Tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển”(4) là một nguyên tắc bất biến trong tình hình hiện nay. Thực tiễn lịch sử cho thấy, việc giành độc lập đã khó, nhưng giữ độc lập, tự chủ còn khó hơn nhiều; nhất là trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu, rộng, đã và đang đặt ra những thách thức lớn, không chỉ đối với nước ta về tính độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế. Nhưng, một bài học lớn của cách mạng Việt Nam cho thấy, nhờ kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và có chính sách phù hợp, khôn khéo theo tinh thần “vạn biến” mà Đảng, Nhà nước ta đã bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong những thời điểm hết sức khó khăn, phức tạp. Đây là “sợi chỉ đỏ” đã được định hình và xuyên suốt các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta từ khi nước Việt Nam mới ra đời đến nay, cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Nghĩa là, giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối, mà còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong tham gia vào các công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Một nội dung thể hiện rõ sự vận dụng hiệu quả phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” để ứng phó với tình hình phức tạp và đầy biến động trên thế giới của Đảng, Nhà nước ta là thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại. Vào những năm cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới có sự biến động sâu sắc: Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đổ vỡ; các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chiến tranh lạnh kết thúc, các quốc gia đều có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã đề ra đường lối: đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế. Đa phương hóa là sẵn sàng quan hệ với nhiều đối tác; đa dạng hóa là sẵn sàng quan hệ ở nhiều lĩnh vực, dưới nhiều hình thức, trên nhiều cấp độ. Thực hiện chủ trương đó, đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Trong đó, có quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, gồm tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Bởi vậy, tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ vững chắc. Phát huy kết quả đó, trong thực hiện đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại hiện nay, Đảng, Nhà nước ta, các ngành, các tổ chức, các cấp cần quán triệt, thực hiện tốt đường lối đối ngoại mà Đại hội XII của Đảng đã xác định. Trong đó, cần chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược, các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất. Đồng thời, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc; mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, v.v. Một yêu cầu đặt ra là, dù thực hiện phương pháp ngoại giao nào cũng phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ giữa các hình thức, cấp độ, nhất là giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Có như vậy, hoạt động đối ngoại mới đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Cùng với đó, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là bài học lớn của cách mạng Việt Nam nói chung, cũng như của công tác đối ngoại nói riêng đã được thực tiễn chứng minh. Ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới nên cách mạng nước ta đã vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức và giành được thắng lợi to lớn. Hiện nay, sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có thế và lực mới. Song, việc kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là yêu cầu khách quan, làm cho sức mạnh của đất nước sẽ nhân lên gấp bội. Nghĩa là thực lực của ta mạnh lên, thì ngoại giao sẽ hiệu quả. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, có thực lực mạnh, thì ngoại giao sẽ thắng lợi; trong đó, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại là những người giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần “chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp”(5) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của công tác đối ngoại trong tình hình hiện nay./.

____________________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 8, Nxb. CTQG, H 2011, tr. 555.

2 - Sđd, Tập 4, tr. 147.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 244.

4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 153.

5 - Sđd, tr. 156.

Thiếu tá, ThS. LÊ XUÂN HUẤN, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Nguồn http://tapchiqptd.vn

Trần Thanh Huyền (st)

Bài viết khác: