Đảng là đội tiên phong, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, do đó Đảng phải là một tổ chức trong sạch, vững mạnh. Theo Bác sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên. Uy tín chung của Đảng và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ sự gương mẫu, tự giác tuân thủ kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của các tổ chức, đoàn thể nhân dân mà đảng viên tham gia.

Kỷ luật của Đảng phải chặt chẽ, nghiêm minh, là điều kiện quan trọng để bảo đảm Đảng thật sự là khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức; bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật dựa trên tình đồng chí, của những người cùng chung lý tưởng, tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc. Kỷ luật đó xuất phát từ ý chí của toàn Đảng nhằm bảo đảm cho sự thống nhất, tập trung cao trong Đảng, đồng thời để phát huy dân chủ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn thể đảng viên và các tổ chức đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”.

Là cán bộ, đảng viên cộng sản phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”, phải “giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của nhân dân”,  khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức, phải báo cáo, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo. Đó là tính Đảng, không có ngoại lệ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc thiết lập kỷ luật, kỷ cương. Người luôn gương mẫu thực hiện, từ sinh hoạt hàng ngày đến việc chấp hành điều lệ, nghị quyết bởi “một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Vì vậy, suốt cuộc đời Bác luôn lấy mình làm gương thực hiện những điều mình yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện. Người hiểu rõ rằng, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Lãnh đạo nói đi đôi với làm, chắc chắn ở dưới không thể có sự tùy tiện, vô tổ chức.

Một việc nhỏ người lãnh đạo hay mắc phải là nể nang, gia đình chủ nghĩa, nhưng câu chuyện Bác tiếp chị gái để lại nhiều suy nghĩ. Vào tháng 11-1946, khi Bác Hồ ở Pháp về, bà Nguyễn Thị Thanh từ Nghệ An ra thăm, đi cùng với hai người cháu là Nguyễn Sinh Thọ và Hồ Quang Chính. Ba người đến Phủ Chủ tịch, trình giấy tờ, Bác cho thư ký ra đón, đưa vào phòng khách. Chờ đến nửa tiếng, bà Thanh đi lại tỏ ra rất sốt ruột. Lúc đó Bác mới ra, câu đầu tiên là xin lỗi chị, bảo biết chị đến nhưng đang tiếp đoàn cán bộ miền Nam, không dứt ra được. Mặc dù từ ngày ra đi tìm đường cứu nước đến lúc đó hai chị em mới gặp nhau và Bác biết rõ chị gái rất kỹ tính, nhưng tình riêng vẫn phải tôn trọng việc chung.

Chuyện để chị gái chờ nửa tiếng không lớn, nhưng nó thể hiện Bác lúc nào cũng đặt việc công lên trên hết. Đây cũng chính là điều Người dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam: Dĩ công vi thượng. Hay Bác dặn đồng chí Lê Giản, Tổng Giám đốc Nha công an Trung ương: Làm công việc an ninh, liên quan đến con người thì chú phải nhớ câu: Thiết diện vô tư. Tức là luôn đặt kỷ cương phép nước lên trên, không lấy tình riêng để giải quyết công việc.

Không chỉ lấy đức trị để giáo dục, răn đe, động viên mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú trọng ban hành các quy định pháp luật để xử lý các hành vi sai lệch. Một tháng sau ngày lập nước, ngày 17-10-1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng là: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người phê bình: “Lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?... Chúng ta phải ghi sâu những chữ công bình, chính trực vào lòng”. Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ký Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong trả lời chất vấn của Quốc hội vào năm 1946, Người nói: “Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho kỳ hết”.

Người rất kiên quyết với những hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc dù kẻ phạm tội ở cương vị nào. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác từng y án tử hình đại tá quân nhu Trần Dụ Châu vì tội tham ô, lợi dụng xương máu của anh em chiến sĩ để lo việc cá nhân. Đến năm 1964, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Việt Hùng vì có bồ bịch mà đầu độc vợ, Bác đã quyết định y án tử hình, vì “Thà chặt một cành sâu cho cây xanh tốt”.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, để xây dựng nền công vụ hiện đại, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả, đòi hỏi phải chú trọng và nâng cao kỷ luật, kỷ cương, trước tiên phải giữ vững nguyên tắc, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; xử lý nghiêm những trường hợp suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không đảm bảo về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có nhiều dư luận; rà soát, sàng lọc và đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng; đề cao trách nhiệm và nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát, kiểm tra, kỷ luật và công khai kết quả kiểm tra.

Khi kỷ cương, kỷ luật được thực hành nghiêm túc thì chuyển hóa thành sự tin tưởng giữa cấp trên với cấp dưới, giữa nhân dân với chính quyền. Nếu chúng ta còn sự tin yêu đó, chúng ta sẽ chiến thắng tất cả, mất sự tin yêu đó, chúng ta sẽ gặp khó khăn.../.

Trúc Hồ

http://tuyengiaoangiang.vn

Đỗ Thị Khánh Vân (st)

Bài viết khác: