Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những chuẩn mực đạo đức cốt lõi trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

dưc chinha
Thăm Bệnh xá Vân Đình, tỉnh Hà Tây ngày 20-4-1963, Bác Hồ căn dặn
cán bộ bệnh xá thực hiện “Lương y như từ mẫu”

Những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp này đã tồn tại qua thời gian, qua các chế độ xã hội và đã được Bác Hồ tiếp thu, phát triển nội dung của những chuẩn mực ấy để rèn luyện chính mình và răn dạy chúng ta. Có người cho rằng: Giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì e cổ quá. Bác đã ôn tồn giải thích: “Cái gì cũ mà tốt thì phải tiếp thu, phát triển lên”.

Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bản thân Người thực sự là tấm gương mẫu mực của cần, kiệm, liêm, chính. Bốn đức ấy, đức nào cũng quý, cũng cần, Bác Hồ đã ví như bốn mùa của trời, bốn phương của đất, thiếu một đức, thì không thành người. Với chữ “chính”, đức “chính”, Bác không phân tích nhiều, Người viết: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà”.

Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là cây hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Số người ấy có thể chia làm hai hạng người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà, là người ác. Siêng năng (cần), tằn tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác.

Chữ “chính” của Bác là sự tiếp thu, phát triển chữ “chính” từ đạo Nho của Đức Khổng Tử. Đức Khổng Tử nêu học thuyết của mình cách đây khoảng 2.500 năm đòi hỏi xã hội phong kiến phải thực hiện cho được “chính danh”. Danh là tên gọi của con người hoặc sự vật. Danh có thể hiểu là do con người đặt tên cho sự vật và hiện tượng khi đã hiểu biết về bản chất của nó. “Chính danh” nghĩa là tên gọi của sự vật thế nào thì bản chất của sự vật như thế ấy. Vua phải thật sự xứng đáng là vua, có đầy đủ các tố chất về tài, đức, về trí tuệ. Các thứ bậc, quan tước được cất nhắc, bổ nhiệm cũng phải có đầy đủ những tiêu chí xứng đáng với chức vụ được bổ (những tiêu chí ấy bây giờ tương tự như chúng ta coi đó là các tiêu chuẩn cán bộ). Trong các mối quan hệ thì cha phải ra cha, con phải ra con, vợ phải ra vợ, chồng phải ra chồng, trên phải ra trên, dưới phải ra dưới… Đức Khổng Tử cho rằng danh có chính thì ngôn mới thuận. Ngôn là biểu hiện không chỉ của danh mà còn là biểu hiện của trí tuệ và các phẩm chất bảo đảm của chính danh. Học thuyết chính danh của Khổng Tử vô cùng sâu sắc và gần gũi với chúng ta hiện nay. Bác Hồ dạy cán bộ, đảng viên đạo làm gương, nêu gương: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” cũng có cội nguồn sâu xa từ thuyết chính danh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quan niệm về cuộc đời là những chuỗi ngày đau khổ, là sự luân hồi, nhân - quả. Người đã tìm ra chân lý của sự khổ đau vô tận của con người do thập kết sử (mười điều) do chính con người tạo ra: tham lam, giận dữ, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, thân kiến, biến kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ; trong đó đặc biệt có tam độc (ba điều): tham lam, giận dữ, si mê là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Đức “chính” theo quan niệm của đạo Phật hết sức toàn diện cả tư duy đến hành động, cả lời nói đến việc làm trong mọi mối quan hệ của con người. Cái đích chữ chính của Đức Phật là cái đích hướng thiện, loại bỏ cái tà, cái ác...

Bác Hồ kính yêu tiếp thu những tinh túy cái thiện của Đức Khổng Tử, Đức Phật, Người định nghĩa: chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Nội dung chữ chính của Bác có cả những điều trong chữ Chính của tinh hoa văn hóa nhân loại: nhân loại luôn có xu hướng hướng thiện, hướng tới cái chính, không chấp nhận cái tà, cái ác. Thực hiện chữ chính theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải bắt đầu từ tâm và phải là sự tu dưỡng bền bỉ suốt đời. Trong mối quan hệ với “liêm”; có “liêm” thì mới có “chính”; có “cần”, “kiệm” thì có “liêm”; nhưng cũng có khi có “liêm” mà chưa thể có “chính” hoàn toàn. Ví dụ như có một người trong cuộc sống và quan hệ luôn liêm khiết, trong sáng, nhưng trước hành vi lũng đoạn, sa đọa của người khác lại không dám góp ý, không dám đấu tranh... thì người đó chưa chính tâm, chưa chính ngôn... Cho nên trong bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính mà Bác dạy chúng ta đức nào cũng vô cùng cần thiết và thực hiện nó không hề dễ. Đức “chính” là kết quả của cần, kiệm, liêm nhưng không phải cứ thực hiện tốt cần, kiệm, liêm là có “chính”, phải thấy “chính” độc lập tương đối, đồng thời cũng là cái đức khó thực hiện nhất trong bốn đức. Trong đời sống “chính” có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, vô cùng cần thiết, nhưng không phải ai cũng thực hiện được, nhất là trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.

Thực hiện tốt đức “chính” thật sự là niềm tin, là sự công bằng, văn minh và ổn định chính trị, xã hội. Những điều đó đòi hỏi ở mọi người, trước hết là ở Đảng, ở cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người đang giữ những cương vị, những trọng trách của Đảng và chính quyền các cấp, bởi vì, họ như những tấm gương cho cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo... Hiểu được và làm được chữ “chính” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không hề đơn giản mà nó là niềm tin, là cội nguồn của sự đoàn kết, là biểu hiện của một xã hội chân chính, một Đảng chân chính, một tương lai chân chính, bắt đầu từ mỗi con người chân chính..



CHÍNH


Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà. CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn. Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC.

Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: việc CHÍNH và việc TÀ.

Làm việc CHÍNH, là người THIỆN.

Làm việc TÀ, là người ÁC.

Siêng năng (cần), tằn tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN.

Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác.

Bất kỳ ở tầng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt:

1. Mình đối với mình.

2. Mình đối với người.

3. Mình đối với công việc.

ĐỐI VỚI MÌNH

- Chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự đại tức là thoái bộ. Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn.

- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.

Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.

- Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.

Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình. Cụ Tăng Tử là một vị đại hiền, là một tín đồ giỏi nhất của cụ Khổng Tử. Cụ Tăng đã làm kiểu mẫu cho chúng ta. Cụ nói: Mỗi ngày tôi tự kiểm điểm mấy lần: đối với người có thẳng thắn không? Đối với việc có chuyên cần không?

Cụ Khổng Tử nói: Mình có đứng đắn, mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ.

Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.

ĐỐI VỚI NGƯỜI

Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người.

Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ.

Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới.

Phải thực hành chữ Bác - Ái.

ĐỐI VỚI VIỆC

Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công. Việc THIỆN thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ÁC thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm.

Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to.

Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định được nhiều hạnh phúc.

Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt.

Con cháu mình sung sướng,

Gia đình mình no ấm,

Làng xóm mình thịnh vượng,

Nòi giống mình vẻ vang,

Nước nhà mình mạnh giàu.

Mục đích ấy tuy to lớn, nhưng rất thiết thực.

Thiết thực, vì chúng ta nhất định đạt được.

Chúng ta nhất định đạt được, vì mỗi người và tất cả dân ta đều thi đua: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Cần, kiệm, liêm, chính, tháng 6-1949.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr. 631-645.

 

Theo Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)

Bài viết khác: