Khi nghiên cứu để xây dựng xã hội mới và nhà nước kiểu mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thừa kế và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Tư tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác - Lênin tập trung vào: (1). Bản chất dân chủ trong nhà nước; (2). Chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số quần chúng nhân dân; (3). Bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi trong nhà nước pháp quyền; (4). Điều kiện cơ bản để xây dựng nhà nước vô sản.

V.I.Lênin đã nhấn mạnh làm rõ nhà nước tư sản, phê phán nền dân chủ trong nhà nước tư sản; khẳng định nhà nước vô sản mang bản chất giai cấp công nhân, là chuyên chính vô sản. Đồng thời, khái quát nhiều quan điểm về xây dựng nhà nước kiểu mới, đó là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản của nhân dân, khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh cho rằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ Việt Nam gồm các đặc trưng cơ bản: Một là, Nhà nước Việt Nam mới là nhà nước quyền lực thuộc về nhân dân. Đó là nhà nước mà trong đó các quyền tự do của con người được ghi nhận, được bảo đảm. Hai là, Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở hai phương diện: (1). Nhà nước ta chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; (2). Nhà nước ta mang tính nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Ba là, Nhà nước Việt Nam quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Theo Hồ Chí Minh, pháp luật là của nhân dân và để phục vụ nhân dân, mọi quyền hạn, công lý “đều là nơi dân”; pháp luật là công cụ để củng cố nhà nước, duy trì trật tự xã hội.

Cùng với quá trình phát triển nhận thức lý luận, tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước, quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được hình thành và phát triển. Nghị quyết Trung ương 6 (khóa I), đã nhấn mạnh: Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất dân tộc Việt Nam không phải bằng cách qụy lụy mặc cả với đế quốc, xin đế quốc ban cho một “Hiến pháp”. Trái lại, bằng cách liên hiệp tất cả các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc làm cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản luôn chú ý bênh vực quyền lợi của vô sản quần chúng lao động và Đảng sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng để giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa I), đã đề ra nhiệm vụ: “Ban bố Hiến pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do dân chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp,...”1.

Trong giai đoạn lãnh đạo nhân nhân đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng ta đã đề ra mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước kiểu mới, nhà nước công - nông, nhà nước được xây dựng dựa trên Hiến pháp dân chủ, có tính nhân văn sâu sắc. Sau khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Đảng và nhân dân ta đã bắt tay xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, trong đó có nhiều yếu tố pháp quyền thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tại Đại hội II của Đảng, khi bàn về “Chính quyền nhân dân”, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam đã nêu lên ba quan điểm cơ bản: thể hiện chính quyền dân chủ nhân dân, nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, v.v. Nguyên tắc tổ chức của chính quyền đó là dân chủ tập trung, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước cách mạng Việt Nam từ sau năm 1945 đã phải trải qua 30 năm lãnh đạo, tổ chức các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Vì vậy, nhận thức về Nhà nước pháp quyền chưa được bổ sung, hoàn thiện.

Từ năm 1986, quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày càng được hoàn chỉnh với việc đẩy mạnh cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế, hướng đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,… Trong thời kỳ quá độ, đó là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước ta là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật”2; “quản lý nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”3.

Đại hội VII của Đảng đã đề ra chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước; sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương các cấp. Tuy về mặt câu chữ, Nghị quyết Đại hội chưa nói rõ xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng về mặt nội hàm thể hiện khá đầy đủ tinh thần chỉ đạo xây dựng nhà nước pháp quyền. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 là bước tiến quan trọng trong nhận thức về nhà nước pháp quyền, nhưng khái niệm Nhà nước pháp quyền chưa được đề cập trong Hiến pháp này. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng ta lãnh đạo”4.

Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) nêu năm quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước: (1). Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; (2). Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp; (3). Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (4). Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; (5). Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước5.

Đại hội VIII của Đảng, tiếp tục khẳng định các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền như trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII). Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) nhấn mạnh ba yêu cầu: (1). Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; (2). Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; (3). Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Nghị quyết cũng nhấn mạnh các yêu cầu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đáp ứng việc củng cố và hoàn thiện chính quyền, thực hiện dân chủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đến đây, các quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta nêu ra đã định hình bộ khung lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam với những nội dung toàn diện, cụ thể.

Quan điểm về Nhà nước pháp quyền được tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện tại Đại hội IX của Đảng, khi xác định: “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế” với các nội dung: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”; “Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước”; “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế”6.

Nhiệm vụ cụ thể cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam được Đại hội X của Đảng xác định: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quản lý nhà nước thuộc về nhân dân. Quản lý nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”7.

Để hoàn thiện một bước nhiệm vụ trên, Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và gắn chặt với việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; đồng thời, gắn bó chặt chẽ với đẩy mạnh cải cách trên các lĩnh vực cũng như với việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đặt ra của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đã xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dựa trên tám đặc trưng và “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một đặc trưng cơ bản. Thể chế hóa quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “(1). Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (2). Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; (3). Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với quy định trên, Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ một đặc trưng rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thể hiện rất rõ nguyên tắc cơ bản - nguyên tắc chủ quyền nhân dân, đây cũng là nội dung xuyên suốt được ghi nhận trong 05 bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị,...”8. Đồng thời, khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”9.

Như vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quá trình đổi mới tư duy, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng như thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta đã được xác định ngày càng rõ hơn. Đồng thời, với việc xây dựng nhà nước, Đảng ta coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. Những thành quả to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền những năm qua đã góp phần hoàn thiện hơn nữa quan điểm lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

PGS, TS. Phan Trọng Hào, Thư ký khoa học chuyên trách,
Hội đồng Lý luận Trung ương

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Tâm Trang (st)

________________

1. ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 69.
2. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb CTQG, H. 2005, tr.124.
3. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.120.
4. ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lưu hành nội bộ, tháng 01/1994, tr. 55.
5. ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb. CTQG, H. 1995, tr. 23, 26, 27.
6. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.131, 132, 134.
7. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 45.
8. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 71.
9. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 174 - 175.

Bài viết khác: