Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lý luận về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới”1. Đây là quan điểm, chủ trương lớn của Đảng, cũng là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội đề cập về vấn đề này.

Đánh giá kết quả công tác lý luận, Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng”2; “Tư duy về quốc phòng, an ninh, đối tác, đối tượng, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới và ngày càng hoàn thiện… Đã ban hành và triển khai đồng bộ các chiến lược quan trọng…”3. Tuy nhiên, Đảng cũng nghiêm túc chỉ ra những hạn chế trong công tác lý luận: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp thực tiễn đặt ra chưa được làm sáng tỏ”4. Đáng chú ý là, mặc dù đường lối, học thuyết quân sự, quốc phòng đã có nội dung nhất định, nhưng đến nay vẫn là các bộ phận, thành phần riêng lẻ trong từng văn bản, nghị quyết của Đảng, chưa hình thành văn bản riêng biệt, độc lập; một số chiến lược quan trọng đã được xây dựng, nhưng vẫn thiếu một hệ thống chiến lược đầy đủ, nhất là chiến lược ngành, chuyên ngành trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; lý luận về quản lý chiến lược, các mặt công tác quân sự, quốc phòng còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu, sáng tỏ, v.v.

Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; tình trạng tăng ngân sách quốc phòng; xuất hiện các loại hình chiến tranh mới; tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tranh chấp, xung đột biển, đảo, biên giới, dân tộc, tôn giáo, biến đổi khí hậu, đại dịch Covid-19,... làm cho cục diện thế giới ngày càng phức tạp. Trong nước, kinh tế - xã hội có bước phát triển nhanh, tiềm lực, vị thế và uy tín trên trường quốc tế tăng cao, nhưng đất nước còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bên cạnh đó, xuất hiện các trào lưu tư tưởng, học thuyết, chiến lược mới, đặt ra cho công tác nghiên cứu, phát triển lý luận những yêu cầu mới. Vì vây, để nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, làm tốt công tác định hướng trong nghiên cứu lý luận quân sự, quốc phòng thời kỳ mới. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu và là giải pháp mang tính nguyên tắc, nên cần phải thống nhất nhận thức: việc nghiên cứu lý luận quân sự, quốc phòng phải bám sát đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, hệ thống luật, nghị định, văn bản của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng để xác định chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận phù hợp với thời kỳ mới. Trong đó, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; đồng thời, quán triệt quan điểm, đường lối nói chung, về quân sự, quốc phòng nói riêng đã ban hành, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII. Phát hiện những vướng mắc, bất cập, tìm ra những quy luật, mối quan hệ phổ biến và đặc thù trong các hoạt động quân sự, quốc phòng khái quát thành những vấn đề lý luận mới để tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng thành các chủ trương, nghị quyết và thể chế hóa thành pháp luật triển khai thực hiện trong giai đoạn mới. Trước mắt, cần bám sát phương châm, chủ đề, nghị quyết Đại hội XIII, trong đó đổi mới, sáng tạo, phát triển là vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Do đó, công tác lý luận cần có đột phá, sáng tạo, đi sâu làm rõ những vấn đề mới, nội dung cốt lõi trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, lựa chọn nội dung trọng tâm, trọng điểm để nghiên cứu, phát triển phù hợp với từng giai đoạn. Hệ thống lý luận quân sự, quốc phòng rất rộng, nhiều nội dung và phương diện khác nhau, do vậy trên cơ sở nghiên cứu tổng thể, toàn diện, cần lựa chọn những nội dung cơ bản, trọng tâm, cấp bách, những vấn đề phức tạp, chưa rõ, chưa có sự đồng thuận cao để tập trung nguồn lực nghiên cứu, phát triển, phù hợp với thời kỳ mới, khắc phục tình trạng nghiên cứu dàn trải, phân tán. Trước những biến đổi của thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa sâu sắc, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là từ mục tiêu của Đại hội XIII đến năm 2030, Việt Nam là nước có công nghiệp hiện đại, năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao, đặt ra những yêu cầu bức thiết của hoạt động quân sự, quốc phòng hiện nay cũng như tương lai phải đổi mới, phát triển để tương xứng với một nước phát triển, cần tập trung nghiên cứu, bổ sung phát triển lý luận về mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; phương châm, phương thức, lực lượng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân thời kỳ mới; lý luận về nghệ thuật quân sự, quốc phòng; về tổ chức, kỹ thuật quân sự, văn hóa quân sự, công nghiệp quốc phòng, đối ngoại quốc phòng; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đặc biệt là chuẩn bị về mặt lý luận xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chinh quy, tinh nhuệ, hiện đại và vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, với các chiến lược quân sự, quốc phòng thời kỳ mới.

Bên cạnh đó, cần quan tâm nghiên cứu, làm rõ lý luận về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; đấu tranh quốc phòng, chuyển hóa đối tượng thành đối tác; làm rõ việc kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kinh tế số gắn với bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; kinh tế xanh gắn với bảo vệ môi trường; kinh tế đối ngoại gắn với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; kinh tế vùng, miền gắn với phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ; công tác giáo dục quốc phòng và an ninh; xây dựng nhà trường quân sự thông minh; vai trò của Quân đội trong xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống và phòng thủ dân sự trong thời kỳ mới, v.v. Trên cơ sở các vấn đề mới, công tác lý luận cần tập trung nghiên cứu làm rõ, bổ sung, phát triển cả về nội hàm và hình thức thể hiện, từ chủ trương đến giải pháp thực hiện trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, Chính phủ số, Chính phủ điện tử, môi trường mạng, môi trường vũ trụ và các loại hình chiến tranh mới đã và có thể xuất hiện, như: chiến tranh phi quy ước, chiến tranh thông tin - không gian mạng, v.v.

Ba là, phát huy dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ là động lực của lý luận khoa học, là môi trường sống lành mạnh, “cái nôi” nuôi dưỡng sự sáng tạo, đột phá, phát triển của các nhà khoa học chân chính; không có dân chủ sẽ không có sáng tạo, khó có đột phá, không thể có cái mới trong nghiên cứu lý luận. Vì vậy, khoa học lý luận sẽ cằn cỗi, xơ cứng, thiếu sức sống, không đủ sức đảm nhiệm vai trò dẫn đường cho hoạt động thực tiễn. Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân làm công tác nghiên cứu luận được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng tiếp thu ý kiến, vận dụng sử dụng kết quả nghiên cứu phù hợp với pháp luật hiện hành. Từ nhận thức vai trò quan trọng của dân chủ, Đại hội XI xác định: “Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ cá nhân, tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”5. Ngày 25/4/2015, Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Quy định số 285-QĐ/TW về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan Đảng, Nhà nước. Đây là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng, tạo cơ sở để phát huy dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận.

Việc phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận đòi hỏi cơ quan và đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận cần được tạo điều kiện thuận lợi trong cung cấp, tiếp cận các nguồn thông tin, tài liệu, được tham gia thảo luận, tranh luận khoa học, được tôn trọng, bình đẳng, khuyến khích sáng tạo trong hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Quy định số 285 của Bộ Chính trị chỉ rõ những hành vi bị cấm, như: Trù dập, kỳ thị với những người phát biểu tại các diễn đàn khoa học với mục đích xây dựng, nhưng có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện hành. Nghiêm cấm việc nhân danh tổ chức hoặc cá nhân để áp đặt ý kiến hoặc quy chụp về mặt tư tưởng, quan điểm đối với người khác và có hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác. Mặt khác, nghiêm cấm lợi dụng dân chủ để truyền bá ý kiến khác, hoặc trái với đường lối của Đảng, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để phát huy dân chủ cần nâng cao chất lượng đánh giá, nghiệm thu các công trình nghiên cứu; biểu dương, khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có sản phẩm nghiên cứu lý luận tốt và xử lý kỷ luật nếu có sai phạm.

Bốn là, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực trong công tác nghiên cứu phát triển lý luận quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, phát triển lý luận phụ thuộc vào hệ thống các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có vai trò quyết định nhất. Vì vậy, cần tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ của Hội đồng Lý luận Trung ương; phát huy vai trò của các viện, trung tâm nghiên cứu, các cục chức năng của Bộ Quốc phòng, các tổng cục, một số học viện, nhà trường,… trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Muốn vậy, cần có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là năng lực phân tích, dự báo, tham mưu, đề xuất những vấn đề mới, khả năng khái quát thực tiễn quân sự, quốc phòng thành lý luận. Từng bước xây dựng nguồn nhân lực nghiên cứu lý luận chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu ngành giỏi và các lớp cán bộ kế tiếp với số lượng, chất lượng, cơ cấu, ngành, nghề phù hợp. Trong đó, cần xây dựng, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút nhân tài vào làm công tác nghiên cứu lý luận quân sự, quốc phòng, đồng thời có chế độ đãi ngộ xứng đáng với các nhà khoa học.

Nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, góp phần đưa nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá Lê Văn Hưởng,
Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Tâm Trang (st)

___________________

1. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 159.
2. Sđd, Tập II, tr. 169 - 170
3. Sđd, Tập I, tr. 68.
4. Sđd, Tập II, tr. 172 - 173.
5. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 256.

Bài viết khác: