Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị là vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị.
Ảnh minh họa
Sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng là khâu đột phá trong đổi mới tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Xét đến cùng thì việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị sẽ quyết định việc nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lớn còn lại.
Hiện nay có những quan điểm xuyên tạc, bóp méo hay cố tình phủ định những thành công của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Để bác bỏ những luận điểm này, chúng ta cần chỉ rõ những thành công cụ thể của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong quá trình đổi mới.
Điều quan trọng đầu tiên là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”1. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn này, Đảng từng bước hoàn thiện nhận thức về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “đổi mới kinh tế” là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở”, hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. “Đổi mới chính trị” là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân do Đảng lãnh đạo. Ngay từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta đã khẳng định “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản; là làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn”2; đồng thời nhấn mạnh “Trong quá trình mở rộng dân chủ phải ngăn ngừa đấu tranh khắc phục khuynh hướng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản, phải tỉnh táo, đấu tranh chống lại những lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta. Phải lắng nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân, nhưng không “theo đuôi” quần chúng”3. Đây là những nguyên tắc chỉ đạo rất quan trọng, làm tiền đề để Đảng nhận thức và giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong suốt quá trình đổi mới.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng không thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng xác định ổn định kinh tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh tế, mà là một qúa trình vận động tiến lên, vừa phát triển, vừa điều chỉnh các quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế quốc dân”4. Còn ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng bảo đảm điều kiện cho các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, xã hội được đổi mới, phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn, bền vững hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”5.
Cải tổ của Liên Xô thất bại có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân sâu xa là Đảng Cộng sản Liên Xô đã nhận thức và giải quyết không đúng mối quan hệ giữa cải tổ kinh tế và cải tổ chính trị. M.Goocbachốp đã tuyệt đổi hóa cải tổ chính trị, không chú ý đúng mức tới cải tổ kinh tế, không lấy cải tổ kinh tế làm căn cứ, cơ sở cho cải tổ chính trị, trong cải tổ chính trị thì giải quyết không đúng quan hệ giữa giai cấp và nhân loại, tuyệt đối hóa cái nhân loại, đánh giá không đúng cái giai cấp trong quan hệ với cái nhân loại.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm vô nguyên tắc của Đảng cộng sản Liên xô trong cải tổ, ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ trước hết cần tập trung đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó từng bước đổi mới chính trị.
Đại hội VI của Đảng (họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18/12/1986)
Đại hội VI (1986) diễn ra trong bối cảnh có sự “giảm sút của của sản xuất vào những năm 70 cùng với những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố trí đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976-1980, để lại hậu quả nặng nề”6, đời sống kinh tế của nhân dân vô cùng khó khăn. Trong bối cảnh ấy, Đại hội đề ra nhiệm vụ tập trung vào đổi mới kinh tế, cụ thể là “phải thực hiện những biện pháp có hiệu quả để nhanh chóng ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đưa mọi mặt hoạt động vào quỹ đạo phát triển bình thường và tiến hành những cuộc cải cách về tổ chức, quản lý, thiết lập cơ cấu sản xuất và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội”7. Từ mục đích này, Đại hội tập trung vào thực hiện ba chương trình kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu để ổn định và thiện đời sống của nhân dân. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ đổi mới chính trị mà trước hết tập trung vào phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng8.
Tiếp tục tinh thần của Đại hội VI, Đại hội VII (1991) xác định rất đúng “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”9. Đặc biệt, Đại hội rút ra bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu cho việc đổi mới chính trị trong quan hệ với đổi mới kinh tế: “Vì chính trị đúng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”10. Đây vừa là bài học kinh nghiệm quý báu, vừa là nguyên tắc quan trọng mà Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình đổi mới.
Không có mẫu hình sẵn cho quá trình đổi mới chính trị, nên Đảng ta vừa phải tìm tòi vừa sáng tạo, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Mặc dù là thận trọng, nhưng không vì thế mà Đảng trì trệ, bảo thủ, chậm trễ trong đổi mới hệ thống chính trị. Đây là tinh thần khoa học, thực tiễn và cách mạng của Đảng ta.
Tổng kết 10 thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII (1996) tiếp tục khẳng định bài học: xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này chuyển sang thái cực khác11. Trên tinh thần lập trường, quan điểm này, Đại hội tiếp tục khẳng định “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”12; tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục những khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội13. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Tại Đại hội IX (2001), Đảng rút ra bài học kinh nghiệm tiến hành đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ mô hình có sẵn nào, đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp14. Trên cơ sở đó, Đại hội chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH; xác định quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; đề ra nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế15.
Tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội X (2006) rút ra bài học “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội”16.
Tại Đại hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”17. Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI tập trung vào đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về đổi mới chính trị, tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH18.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới chính trị, Đại hội XII (2016) đã rút ra kết luận “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”19. Từ thực trạng này, Đại hội XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”20. Đồng thời đề ra mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị; giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”21. Từ mục tiêu cụ thể này, Đại hội XII đề ra yêu cầu đối với đổi mới thể chế kinh tế: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch (...) Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội...”22. Đối với đổi mới chính trị: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội23. Đối với xây dựng Đảng: đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức.Trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Đối với phát huy dân chủ XHCN: bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội24. Tăng cường, củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân25. Đại hội XII tiếp tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam26.
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”27; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”28. Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”29. Quan điểm này tiếp tục chỉ đạo, soi sáng việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới của Đảng ta.
Từ những khái quát nêu trên cho thấy, trong suốt hơn 35 năm thực hiện quá trình đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đạt được điều này là do có sự lãnh đạo đúng đắn, khoa học của Đảng nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân nhân tham gia, ủng hộ. Cùng với luôn bảo đảm sự phát triển đồng bộ của cả kinh tế và chính trị, thực tiễn đất nước và quốc tế luôn được Đảng lấy làm tiêu chuẩn điều chỉnh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đồng thời lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu giải quyết mối quan hệ này./.
GS, TS. Trần Văn Phòng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo Tạp chí Tuyên giáo điện tử
Tâm Trang (st)
_____________________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.49. tr.968, 968, 923.
4, 5, 6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H, 1987, tr.151, 43, 13, 42.
8. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.109, 123.
9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, H, 1991.tr.54, 54.
11, 12, 13. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.70, 71, 71.
14, 15. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.81, 83, 85, 131, 137.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.70-71.
17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.99-100, 73
19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016; tr, 68, 75, 104, 273-274, 175, 169, 166, 80.
27, 28, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.110, 111, 110.